'Bạo chúa' khét tiếng thời Tam Quốc: Bản tính ngang tàng do tuổi thơ tràn ngập mưu mô, bạo lực
Xuất phát từ tuổi thơ không hạnh phúc mà khi lớn lên, tính cách của vị hoàng đế này vô cùng tàn nhẫn và ngang ngược.
Tam Quốc (220 - 280) là một thời kỳ phân liệt trong lịch sử Trung Quốc. Tên gọi này xuất phát từ sự tồn tại cùng lúc của ba quốc gia Tào Ngụy, Thục Hán, và Đông Ngô cùng tồn tại là một thời kỳ lịch sử ở Trung Quốc có ba nước Tào Ngụy, Thục Hán, Túc Châu. Nhà Thục Hán có hai vị hoàng đế là Lưu Bị và Lưu Chân; Nhà Tào Ngụy có 5 vị hoàng đế là Tào Phi, Tào Duệ, Tào Phương, Tào Mao, Tào Huân; Nhà Đông Ngô có 4 vị hoàng đế là Tôn Quyền, Tôn Lương, Tôn Tú, Tôn Hạo. Đáng nói, người được cho là độc ác nhất chính là hoàng đế Tôn Hạo của nhà Đông Ngô.
Tôn Hạo (242 - 284) là con trai của hoàng tử Tôn Anh, người bị phế truất ngôi thái tử vào năm Kiến Hưng thứ mười ba (250). 3 năm sau đó, Tôn Hạo phải chứng kiến ông nội Tôn Quân giết Gia Cát Kế (chú của vợ Tôn Hòa), tử hình Tôn Hòa tại Tân Đô (nay là huyện Xuân An, tỉnh Chiết Giang), sau đó kết án tử hình. Tuổi thơ tràn ngập toan tính và bạo lực đã ảnh hưởng không nhỏ đến tính cách của Tôn Hạo.
Từ chức vị Võ Thành Hầu thời Tôn Tú nắm quyền, dưới sự ủng hộ của Bộc Dương, Trương Bố và các quan đại thần khác, Tôn Hạo đã được chọn là người kế vị khi Tôn Tú qua đời vào năm Vĩnh An thứ bảy (264). Khi đó ông mới 23 tuổi.
Dù còn trẻ nhưng Tôn Hạo vô cùng độc ác. Sử liệu về thời Tam Quốc có ghi chép về việc Tôn Hạo liên tục tra tấn, giết hoặc đầy ải nhiều thành viên quan trọng trong gia tộc như Tôn Phong - con trai thứ hai của Tôn Bá, Tôn Phân và năm người con trai của ông, Tôn Thiến và Tôn Quân - anh em cùng cha khác mẹ. Ngay cả các bộ trưởng cũng phải chịu những hình phạt nghiêm khắc do Tôn Hạo ban hành.
Tự tiêu trừ thế lực của mình, lại thêm bản tính mê tín nên cuối cùng Tôn Hạo đã không thể thống nhất thiên hạ và phải nhận cái kết đắng khi bị quân của Tư Mã Viêm đánh bại. Với bản tính ngược ngạo, Tôn Hạo không hề sợ hãi, thậm chí còn thách thức Tư Mã Viêm. Tôn Hạo qua đời năm Thái Khang thứ năm (284) ở Lạc Dương, hưởng dương 42 tuổi.