Câu chuyện ẩn khuất phía sau lớp áo nâu sòng về sư cô Thích Nữ Diệu Thiện, trụ trì tịnh thất An Nhiên thật ly kỳ. Cô xuất thân trong một gia đình quan lại cuối triều đình Bảo Đại và trải qua thời thơ ấu đầy biến động. Khi trưởng thành, câu chuyện cuộc đời cô là những chuỗi ngày dài chìm trong sóng gió khốc liệt giữa bể đời mênh mông.
Ba mùa thu một định mệnh
Chúng tôi tìm đến tịnh thất An Nhiên (ngụ xã Đức Hòa Hạ, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An) mà người dân nơi đây thường gọi bằng cái tên thật bình dị, chùa Lá, nằm bên bờ kênh Xáng hiền hòa. Tiếp chuyện với chúng tôi trong gian phòng khách nhỏ đơn sơ, sư cô Thích Nữ Diệu Thiện (tục danh Lê Thị Sự) bắt đầu câu chuyện về cuộc đời mình bằng những dòng ký ức về một gia đình "trâm anh thế phiệt".
Vào ngày sinh nhật tròn 7 tuổi, cô bé Sự được mẹ gọi đến bên chiếc giường tre cũ kỹ. Mẹ cô chầm chậm kể lại ký ức hé lộ thân thế hoàng tộc của gia đình. Ông ngoại cô khi đó là quan thượng thư đầy quyền lực.
Mẹ cô là một tiểu thư đài các kiêu sa có phu xe đưa đến trường học tiếng Tây. Một buổi chiều tan trường, anh phu xe bất cẩn để trượt chân, mẹ cô văng ra khỏi cỗ xe ngã nhào xuống đường. Lúc đó, một anh thanh niên đi xe đạp cùng đường vội vã dừng lại dìu mẹ cô vào ngồi xuống gốc cây ven đường. Chiều ngày hôm đó, ông ngoại cô cho anh phu xe xơi một trận đòn bầm dập vì tội không cẩn thận.
Trong một lần đi lễ chùa, mẹ cô bất cẩn rơi xuống nước khi thuyền vừa cập bến. Mẹ cô được mọi người cứu lên bờ. "Lúc đó, một chàng thanh niên chen vào khoác lên người mẹ tôi chiếc áo Măng - tô và lấy khăn mùi xoa thấm những giọt nước đọng lại trên tóc và lau mắt cho mẹ. Mẹ ngạc nhiên nhận ra đó chính là chàng thanh niên hôm nào. Tình yêu giữa hai người chớm nở cũng trong mùa xuân ấy", sư cô kể lại.
Cuộc đời không dệt gấm thêu hoa. Tình yêu giữa mẹ cô và chàng thanh niên ấy cũng đến lúc không giấu được gia đình. Ông ngoại cô cho người theo dõi. Biết chuyện, ông "cấm cung" và mời thầy về tận nhà để dạy học cho mẹ.
Đồng thời, ông cho người điều tra lai lịch chàng thành niên đem lòng yêu mẹ cô. Hóa ra, chàng thanh niên đó là giao liên cách mạng chống Pháp. Thân phận bại lộ, anh tham gia vào đoàn quân kháng chiến chiến đấu ở chiến trường Điện Biên. Kết quả mối tình đầu giữa cô tiểu thư nữ sinh và anh giao liên ấy là bào thai dần rõ hình hài trong bụng. Bà ngoại cô thương con gái nên lén đưa mẹ về quê Hà Đông sinh nở.
Thời gian sau, anh giao liên trở lại tìm cô tiểu thư đài các hôm nào. Họ đến với nhau và xây dựng mái ấm gia đình. Nhưng hạnh phúc thật ngắn ngủi. Mùa thu năm 1950, cha cô vĩnh viễn ra đi sau một cơn sốt rét (di chứng của những năm chiến đấu trên chiến trường Điện Biên). Lúc đó, cô chỉ là một bào thai sáu tháng còn nằm trong bụng mẹ và anh trai cô tròn năm tuổi.
Khi Hiệp định Geneve được ký kết, ông ngoại cô chạy theo Pháp bỏ lại gánh nặng gia đình cho bà ngoại lo toan. Sư cô nhớ lại: "Sợ bị đánh tư bản, bà gom góp của cải gia đình đùm túm đưa con cháu vào Nam theo chuyến tàu di cư năm 1954. Bà ngoại thuê hẳn một căn phòng tại một khách sạn nằm trên đường Tự Do cạnh bến Bạch Đằng để ở. Một năm sau, công việc hùn hạp làm ăn với mấy người bạn bị thua lỗ. Gia đình phá sản. Quá đau buồn, bà ngoại tôi qua đời vào một ngày cuối thu năm 1956".
Mẹ cô, một tiểu thư quyền quý chưa từng biết gì về lao động nay phải dần tập tành buôn gánh bán bưng, vật lộn cùng sương gió kiếm sống. Lại một mùa thu cây trút lá vàng (một năm sau ngày ngoại bà mất), cô đau đớn nhìn mẹ nằm liệt trên giường bệnh. "Mẹ nắm chặt tay hai anh em tôi trăng trối. Sau này khi đất nước hòa bình, các con về quê cha ở Phủ Lý (Hà Nam) và quê mẹ ở Hà Đông tìm lại họ hàng nội ngoại để khỏi bơ vơ. Rồi bà trút hơi thở cuối cùng bỏ lại anh em tôi côi cút giữa cuộc đời đầy chiến tranh, loạn lạc", sư cô bùi ngùi.
Tuổi thơ "không gia đình"
Mẹ qua đời, anh em cô trôi nổi và đối diện với bao cám dỗ giữa biển đời ô trọc. Nhà nghèo lại mồ cô nhưng anh em cô vẫn đến trường theo di nguyện trước lúc lâm chung của mẹ. Ngày hai buổi, cô cùng anh trai đến trường Mến Thánh Giá (dòng tu Thiên Chúa Giáo) để tìm giấc mơ con chữ. Thời đó, một số nhân viên làm trong hiệu thuốc tây La Thành Nghệ (nằm trên đường Tự Do, gần nhà thờ Đức Bà) thấy anh em cô mồ côi nhưng hiếu học nên thường mua sách vở khuyến khích anh em cô.
Hai anh em bắt đầu lao vào cuộc sống. Không ít lần cô và anh trai "đụng độ" với băng nhóm trẻ bụi đời để giành giật chén cơm. "11h đi học về, tôi bám theo anh sang đường Hai Bà Trưng lãnh báo về bán. Thời đó, tôi tờ nhật báo Ahiurdhui của Pháp, chiều tiếp tục đến lớp, nếu còn báo thì 17h tan học về bán tiếp. Ngày chủ nhật thì bán tờ Nebdomanlaie. Năm 1963, tôi chuyển sang bán tờ Time và New Week của Mỹ.
Thời gian đó, tứ đại thiên vương trong giới giang hồ chỉ là những anh thanh niên 13, 17 tuổi. Đại - Tỳ - Cái - Thế, Lâm Chín ngón đều tập trung tại rạp hát Cathay và rạp Nam Việt ăn cơm gánh Bà Tốn (5 hào/ đĩa). Buổi tối bán hết báo, anh tôi nhập băng anh Đại (Đại CaThay), anh Lâm ăn nhậu, binh xập xám, chơi sì phé và đánh lộn", sư cô nhớ lại.
Thuở nhỏ, cô thường ăn vận như một thằng con trai. Cô chơi đá banh vật lộn với Năm Cam tại Cầu Bông. Lúc đó, Năm Cam chỉ là một tên "tà lọt" đi theo Bảy Si, chủ sòng bài ở Cống Lấp gần chợ Xóm Chiếu (Quận 4). Buổi tối cô đi học võ Thiếu Lâm ở lò Huỳnh Tiền để tự vệ. "Một lần đi ngang xóm Phông Tên Nước ở quận 4, bọn em út của Năm Cam thấy tôi mặc đồ võ nên rượt đánh. Tôi và ba đứa nữa đánh bọn nó bỏ chạy. Chuyện đến tai, Năm Cam mới thách đấu với tôi. Hai bên thỏa thuận chơi với nhau theo kiểu anh hùng, chọn người ra đánh tay đôi, không ỷ đông hiếp yếu.
Lúc đó, Năm Cam chỉ điểm tôi phải đánh với ổng. Ngày xưa, con nít đánh nhau rất dễ thương, hễ người nào quật ngã đối phương không thể đứng lên thì coi như mình thắng. Lần đó, tôi thắng Năm Cam. Đánh xong, hai bên bắt tay làm hòa, dẫn nhau ra quán nước, tâm sự. Đó là vào năm 1961", sư cô hồi tưởng.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng thống nhất đất nước, cô vui mừng khôn kể cứ ngỡ vợ chồng sẽ chí thú làm ăn cùng nhau xây dựng hạnh phúc gia đình. Không ngờ đến năm 1978, đường tình duyên đứt đoạn. Cô ôm bốn đứa con thơ về vùng kinh tế mới Lê Minh Xuân. Còn anh cô cũng trôi về vùng kinh tế mới sông Bé rồi trở về Phạm Văn Hai (huyện Bình Chánh) và mất ở đó. Cô làm đủ thứ việc để nuôi con: Trồng mía đường, trồng cừ tràm, đi bán chất đốt, đi làm quán nhậu, làm cò đất và cuối cùng là nhân viên nhà hàng karaoke. Các con lớn lên và thành đạt đúng như lời ước nguyện, cô nương nhờ cửa phật tìm trong thanh tịnh để quên đi sóng gió cuộc đời.
Hòa bình, chồng cô nghe lời đường mật của vợ một viên sỹ quan chế độ cũ trốn đi vượt biên nhưng không thành. "Hai người bị bắt đưa đi cải tạo hai năm. Gánh nặng gia đình đè lên vai, tôi vừa lo cho đàn con thơ dại vừa nuôi chồng trong trại cải tạo. Khi hai người trở về, tôi tình nguyện bế con ra đi để nhường hạnh phúc lại cho người ta...", sư cô tâm sự.
Từng từ chối lời mời "nhập bọn" của Năm Cam
Cuộc đời vốn nhiều ngã rẽ. Năm 1965, anh cô bị bắt quân dịch còn cô đã là một thiếu nữ. Công việc bán báo không còn phù hợp. Một người hàng xóm đã giới thiệu cô vào trong nhà hàng Thanh Bạch (đường Lê Lai gần nhà thương Sài Gòn) làm nhân viên pha chế.
Hai năm sau, cô lập gia đình với một người cùng cảnh ngộ cũng mồ côi cha mẹ làm chung nhà hàng. Từ đó, tôi không còn giao du với băng nhóm côn đồ bên ngoài. Cô kể lại: "Khi tôi vô làm trong nhà hàng thì không còn qua lại thân thiết với Năm Cam nữa. Nhưng chuyện của ổng, ít nhiều tôi cũng nghe và biết rõ vì sao Năm Cam có được uy tín trong giới giang hồ lúc bấy giờ.
Năm đó, Nha tổng vây bắt sòng bạc, ông Bảy Si bị kêu án 3 năm tù giam. Năm Cam đứng ra nhận và bị tù hơn hai năm thì được ân xá. Vì ơn nghĩa đó, Bảy Si gả em gái và giao sòng bạc cho Năm Cam trông coi. Từ đó, Năm Cam khuếch trương thế lực và chính thức đi vào con đường giang hồ "chuyên nghiệp". Sau đó, Năm Cam cũng đến thăm tôi hai, ba lần và ngỏ ý mời tôi nhập bọn nhưng tôi không đồng ý".
Mời bạn xem thêm: Cận cảnh hố chôn tập thể hàng trăm người hậu siêu bão Haiyan
Hồng Long (ĐSPL)