Đại diện nữ duy nhất được công nhận là 1 trong 14 anh hùng dân tộc: Nữ vương đầu tiên của Việt Nam
Lịch sử Việt Nam suốt hàng ngàn năm xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước đã xuất hiện nhiều anh hùng dân tộc tiêu biểu.
Trong suốt lịch sử hàng nghìn năm xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước của dân tộc Việt Nam đã xuất hiện nhiều anh hùng dân tộc tiêu biểu.
Công văn ngày 21/6/2013 của Bộ Văn hóa, Thể Thao và Du lịch đã đưa danh sách 14 vị anh hùng tiêu biểu của dân tộc Việt Nam xếp theo thứ tự thời gian bao gồm: Quốc tổ Hùng Vương, Hai Bà Trưng, Lý Nam Đế, Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn, Lý Công Uẩn, Lý Thường Kiệt, Trần Nhân Tông, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ (Quang Trung), Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Theo đó, 14 vị Anh hùng dân tộc Việt Nam đáp ứng được 1 trong 3 tiêu chí dưới đây:
“Người khởi xướng, lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống lại ách đô hộ ngoại xâm, giành độc lập dân tộc;
Người đứng đầu 1 vương triều có đóng góp đặc biệt xuất sắc, lãnh đạo dân tộc giành được những thành tựu to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước;
Nhà quân sự, chính trị, văn hóa lỗi lạc”
Có thể thấy trong 14 vị Anh hùng dân tộc Việt Nam chỉ có duy nhất 1 anh hùng là nữ giới là Hai Bà Trưng. Theo đó, Hai Bà Trưng là tên gọi tắt của hai nữ anh hùng đầu tiên của dân tộc Việt Nam - hai chị em Trưng Trắc, Trưng Nhị. Như vậy đây là hai danh nhân nữ duy nhất trong danh sách các anh hùng dân tộc Việt Nam.
Theo đó, Hai Bà Trưng là thủ lĩnh của cuộc khởi nghĩa lớn thuộc dạng sớm nhất lịch sử Việt Nam cũng như lịch sử nhân loại. Họ cũng được xem là nằm trong những nữ hoàng đầu tiên cai trị quốc gia sau khi được giải phóng ở khoảng thời gian thế kỷ thứ nhất sau công nguyên. Hai Bà Trưng cũng chính là vị vua nữ đầu tiên của dân tộc.
Theo sử cũ, Hai Bà Trưng thuộc dòng dõi dõi lạc tướng (người đứng đầu bộ lạc) Mê Linh thời Hùng Vương. Ở những nơi có đền thờ chính của Hai Bà Trưng đều ghi chép bà là chị em sinh đôi và sinh vào ngày mồng một tháng tám năm Giáp Tuất (năm 14 sau công nguyên). Sử cũ cũng chép lại rằng Trưng Trắc có chồng là Thi Sách (thuộc dòng dõi lạc tướng Chu Diên) và đây là 1 “hôn nhân chính trị” với mục đích liên kết lực lượng của hai miền đất quan trọng thời bấy giờ. Sau khi Thi Sách bị Thái thú (quan cai trị nhà Hán) ở Giao Chỉ (miền đồng bằng Bắc Bộ) là Tô Định giết hại, cuộc khởi nghĩa đồng loạt đã nổ ra vào mùa xuân năm Canh Tý (năm 40 sau Công Nguyên). Nguyên nhân chính của cuộc khởi nghĩa chính là muốn khôi phục nền độc lập cho đất nước và chống lại sự áp bức, đồng hóa của nhà Hán (Trung Quốc).
Hai Bà Trưng đã làm lễ tế cờ khởi nghĩa tại đất Mê Linh vào một sáng mùa xuân năm 40 trong tiếng trống đồng trầm hùng cùng lời thề của Hai Bà Trưng trước giờ xuất binh:
“Một xin rửa sạch nước thù
Hai xin dựng lại nghiệp xưa họ Hùng
Ba kêu oan ức lòng chồng
Bốn xin vẻn vẹn sở công lệnh này.”
Theo sách Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt Nam: “Trưng Trắc là người can đảm, hùng dũng” (lời thừa nhận của bộ chính sử chép về cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng vào loại cổ nhất của Trung Quốc) đã cùng em gái đứng đầu cuộc khởi nghĩa liên kết được sức mạnh toàn dân (trong đó có đông đảo phụ nữ, như các nữ tướng: Thánh Thiên, Lê Chân, Bát Nàn, Thiều Hoa…) và toàn quốc (không chỉ gồm Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam là miền đất Việt Nam ngày nay, từ nam Trung Bộ trở ra, mà cả đất Hợp Phố bây giờ là nam Quảng Đông – Trung Quốc).
Chỉ trong một thời gian ngắn, Hai Bà Trưng đã quét sạch giặc thù khỏi bờ cõi và được tôn làm vua, đứng đầu đất nước độc lập trong thời gian ba năm.
Sau đó, nhà Hán sai lão danh tướng Phục Ba tướng quân Mã Viện cầm đầu đại quân sang tái xâm lược, Hai Bà Trưng đã dũng cảm đương đầu cùng quân giặc, tổ chức kháng chiến đánh những trận lớn từ Tây Vu, Lãng Bạc đến Cấm Khê và cuối cùng đã hy sinh anh dũng vào mùa hè năm Quý Mão (năm 43 sau công nguyên), để lại tấm gương oanh liệt nghìn thu. Hiện nay ở nhiều địa phương trong cả nước có đền thờ Hai Bà Trưng và các tướng lĩnh của Hai Bà.”
Tấm gương anh dũng của Hai Bà Trưng và các nữ tướng dưới thời Hai Bà đã được các thế hệ phụ nữ, nhân dân đời sau tiếp tục phát huy và thể hiện trong các cuộc khởi nghĩa, kháng chiến giành độc lập, chủ quyền cho dân tộc Việt Nam.
Vùng đất sinh ra nhiều danh nhân văn hóa thế giới được UNESCO vinh danh nhất Việt Nam: 3/6 người
Đây chính là vùng đất 'địa linh nhân kiệt' - là nơi sản sinh ra nhiều danh nhân văn hóa thế giới được UNESCO công nhận nhiều nhất Việt Nam