Danh nhân văn hóa nào đã tiên tri quốc hiệu Việt Nam từ 300 năm trước khi chính thức được công nhận?
Quốc hiệu Việt Nam của nước ta đã từng xuất hiện trong lời sấm truyền của vị danh nhân vĩ đại trước 300 năm so với thời điểm nó được công nhận.
Vào năm 1804, nước ta chính thức có quốc hiệu là Việt Nam. Người đặt quốc hiệu này chính là vua Gia Long. Sử sách có ghi chép lại rằng sau khi lên ngôi vào năm 1802, vua rất chú trọng việc ổn định về mặt tổ chức vương triều, do đó lập tức nghĩ đến chuyện đặt quốc hiệu đất nước để thể hiện sự thống nhất của một triều đại mới.
Khi đó muốn đổi quốc hiệu nước thì phải xin ý kiến nhà Thanh. Tuy nhiên, nhà Thanh cho rằng cái tên Việt Nam này rất dễ nhầm lẫn với nước Nam Việt của Triệu Đà năm xưa nên đã không đồng ý. Vua Gia Long không cam lòng, nhiều lần gửi thư biện giải nên cuối cùng nhà Thanh cũng chấp nhận cái tên Việt Nam.
Tháng 2/1804, vua Gia Long ban chiếu đặt quốc hiệu mới của nước ta là Việt Nam. Trích một đoạn trong chiếu của vua như sau: “Đế vương dựng nước, trước phải trọng Quốc hiệu để tỏ thống nhất. Xét từ các đấng tiên thánh vương ta xây nền dấy nghiệp, mở đất Viêm bang, gồm cả đất đai từ Việt Thường về Nam, nhân đó lấy chữ Việt mà đặt tên nước… nên định lấy ngày 17 tháng 2 năm nay, kính cáo Thái miếu, cải chính Quốc hiệu là Việt Nam, để dựng nền lớn, truyền lâu xa. Phàm công việc nước ta việc gì quan hệ đến Quốc hiệu và thư từ báo cáo với nước ngoài, đều lấy Việt Nam làm tên nước, không được quen xưng hiệu cũ là An Nam nữa”.
Dù năm 1804, quốc hiệu Việt Nam mới được công nhận chính thức nhưng trên thực tế, nó đã từng được Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm - danh nhân văn hóa, nhà thơ lớn, nhà giáo vĩ đại của Việt Nam - tiên tri từ trước đó 300 năm. Cụ thể, khi nước ta vẫn còn đang được gọi là Đại Việt thì ông đã đề cập trong lời sấm truyền rằng: "Việt Nam khởi tổ gầy nên". Trong thư gửi trạng nguyên Giáp Hải, ông có viết: "Tiền trình vĩ đại quân tu ký/ Thùy thị phương danh trọng Việt Nam" (Tiền đề rộng lớn ông nên ghi nhớ/ Ai sẽ là kẻ có tiếng thơm được coi trọng ở Việt Nam?) và "Tuệ tinh cộng ngưỡng quang mang tại/ Tiền hậu quang huy chiếu Việt Nam" (Cùng ngửa trông ngôi sao sáng trên bầu trời/ Trước sau soi ánh sáng rực rỡ vào nước Việt Nam).
Một số sử liệu lại phủ nhận việc Trạng Trình là người đầu tiên nhắc đến hai tiếng Việt nam vì hai chữ thiêng liêng này đã được khắc trên bia đá có niên đại từ thế kỷ 16-17 ở chùa Bảo Lâm (Hải Dương), chùa Cam Lộ (Hà Nội) hay chùa Phúc Thánh (Bắc Ninh)… Bia Thủy Môn Đình ở biên giới Lạng Sơn có khắc câu: 'Việt Nam hầu thiệt, trấn Bắc ải quan" (đây là cửa ngõ yết hầu của Việt Nam và là tiền đồn trấn giữ phương Bắc). Cũng có sử liệu nhấn mạnh rằng vua Quang Trung mới là người đặt quốc hiệu Việt Nam từ năm 1792 và "Tuyên cáo đặt mới quốc hiệu" do ông Phan Huy Ích soạn thảo. Chung quy lại, mốc thời gian sớm nhất được ghi nhận về sự xuất hiện của quốc hiệu Việt Nam là thế kỷ 14.