Marc Einstein, Giám đốc thực tế ngành ICT tại Frost & Sullivan châu Á - Thái Bình Dương mới đây đã có bài viết về 3G tại Việt Nam.
<></>
Việt Nam là một trong những thị trường tăng trưởng nhanh nhất ở châu Á, và đã đạt một tốc độ phát triển thị trường như hiện nay, điều này khó có thể tưởng tượng khi 5 năm trước tỷ lệ thâm nhập di động chưa đến 20%. Thị trường Việt Nam đã tăng từ 2,6 triệu thuê bao năm 2005 lên 90,7 triệu trong năm ngoái, và doanh thu tăng gấp 4 lần lên 4,4 tỷ USD trong cùng thời gian.
Sự tăng trưởng ấn tượng này nhờ có các nhà khai thác mới trong nước như Viettel và EVN Telecom cũng như các nhà đầu tư nước ngoài từ Hong Kong, Hàn Quốc và Nga cạnh tranh với các nhà khai thác hiện tại như Mobifone và Vinaphone. Môi trường siêu cạnh tranh này đã dẫn tới việc cạnh tranh giá cước khốc liệt làm nóng thị trường và làm giảm đáng kể lưu lượng thoại.
Việt Nam cũng là một trong những thị trường đấu thầu giấy phép 3G muộn trong khu vực, vào cuối năm 2009. Các dịch vụ 3G đã được báo hiệu cho câu trả lời về thị trường quá bão hòa và đã được khai trương rầm rộ và trong khi 3G được mong đợi đóng một vai trò lớn trong việc phát triển ngành và quốc gia nói chung, nhưng cho tới nay số thuê bao 3G đã không được như mong đợi so với sự tăng trưởng ồ ạt ở các nước tiên phong trong khu vực như Malaysia và Indonesia. So với các nước khác trong khu vực, Việt Nam ở cấp sử dụng 3G thấp hơn, chỉ cao hơn Campuchia nhưng còn khá xa mới bằng một số nước khác trong khu vực.
3G Việt Nam đứng thứ 3 từ trái sang |
Tuy nhiên, vấn đề thực tế về việc sử dụng 3G ở Việt Nam nằm ở chỗ là làm thế nào dịch vụ được tiếp thị. Ba năm qua chỉ nổi bật là cuộc chạy đua khốc liệt về giá cước, cho tới gần đây là vụ Beeline.
Cuộc chiến về giá cước này đã tác động thị trường như Viettel là ví dụ đã cung cấp truy nhập thiết bị 3G giới hạn với giá 120.000 đồng (5,74 USD). Điều thị trường cần là thương hiệu và cho khách hàng thấy giá trị của các dịch vụ băng rộng di động nếu các nhà khai thác trong nước hướng tới khai thác mạng ra tiền.
Tập đoàn VNPT sở hữu hai mạng Mobifone and Vinaphone, có khả năng sáp nhập thành một nhà khai thác khi một luật mới cấm không được quá 20% nắm giữ cổ phần ở cả hai đối thủ viễn thông. Dù VNPT đã thực hiện việc giảm sức ép giá cước lên thị trường.
Quan trọng hơn, Việt Nam đang trở thành địa điểm sản xuất máy di động lớn. Theo chính phủ, Việt Nam đã xuất khẩu 3,3 tỷ USD điện thoại trong vòng 8 tháng 2011, tăng ba lần trong năm. Nokia dự định đóng cửa nhà máy sản xuất ở Rumani và đầu tư 200 triệu euro ở một nhà máy mới ở Việt Nam trong khi Samsung muốn sản xuất 100 triệu máy vào năm 2012. Việc bán điện thoại thông minh gần đây chỉ chiếm 10% số lượng bán ra và có một cơ sở sản xuất lớn trong nước sẽ giúp tăng số người sử dụng.