Ivy Bridge và viễn cảnh mới cho các CPU di động của Intel
Một năm vừa qua có thể nhận xét là một năm thành công đối với Intel, được đánh dấu bằng viêc hãng đã cho ra mắt nền tảng vi xử lý Core i-Series thế hệ thứ 2 kế tiếp có tên mã là Sandy Bridge. Mặc dù gặp phải vấn đề về lỗi liên quan đến chipset sau khi công bố, song về cơ bản, nền tảng mới đã cho thấy khả năng vượt trội, đặc biệt là trên các thiết bị di động, qua đó, tạo nên một năm hiên tượng cho hãng sản xuất chip máy tính lớn nhất thế giới này. Vi xử lý Sandy Bridge cung cấp hiệu năng tuyệt vời, thời lượng pin ấn tượng, và đồ họa tích hợp đáp ứng tốt hầu hết các nhu cầu không quá tập trung vào game. CPU Sandy Bridge kết hợp với công nghệ Optimus của NVIDIA sẽ là quá đủ cho những gì bạn cần từ một chiếc laptop: di động, hiệu năng, chơi game ..., tất cả đều tốt, và đương nhiên là ngoại trừ ngân sách. Tuy vậy, đúng như chúng ta vẫn hay nói “tiền nào của nấy”, chắc chắn rằng sẽ có nhiều người cảm thấy hạnh phúc hơn với quyết định đầu tư vào những chiếc laptop có trang bị vi xử lý Sandy Bridge, sau khi họ thực sự cân nhắc về cái mà họ nhận được.
Lý do thực sự dẫn đến sự thành công của Sandy Bridge, đó là với nền tàng này, Intel đã không còn duy trì giữa hai kiến trúc vi xử lý riêng rẽ dành cho thiết bị di động nữa, và họ cũng đồng thời nâng năng lực làm việc của thế hệ vi xử lý mới lên một mức độ cao hơn. Trước Sandy Bridge, Intel áp dụng hai kiến trúc khác nhau cho phân khúc di động với mức độ hoàn toàn khác. Với phân khúc mà đòi hỏi hiệu năng cao thì Intel có kiến trúc Clarksfield, phiên bản di động của CPU Lynnfield trên máy tính để bàn. Và Clarksfield / Lynnfield thực chất là dòng chính của nền tảng Bloomfield / Nehalem, bộ xử lý Core i7 đời đầu của Intel, hỗ trợ bộ nhớ kênh đôi và giá xuất phát điểm thấp hơn. Vấn đề gặp phải ở Clarksfield bắt nguồn từ góc độ di động vì nó vẫn tiêu thụ quá nhiều năng lượng, vậy nên, ngay cả với pin dung lượng lớn, bạn thường bị hạn chế đến ba hoặc bốn giờ sử dụng pin là tối đa. Trong khi đó, dành cho đối tượng người dùng chính mà không đòi hỏi hiệu suất của CPU quá nhiều, Intel đem đến lựa chọn là kiến trúc Arrandale hai nhân với đồ họa Intel HD tích hợp. Kết quả là một mức giá thấp hơn đáng kể, nhờ IGP Arrandale mà cho phép cung cấp thời lượng pin tốt hơn, đồng thời nó cũng thực sự đã mở đường cho việc ứng dụng công nghệ Optimus của NVIDIA vào các laptop di động. Với Sandy Bridge, Intel kết hợp các CPU di động cả cao cấp và phân khúc chính vào cùng một sản phẩm, với các lựa chọn quad-core và dual-core mà có thể tương thích trên socket giống nhau.
Tuy nhiên, Sandy Bridge là không chỉ là về việc thống nhất dòng sản phẩm di động của Intel. Ở cuối kỷ nguyên của Core 2, Intel bắt đầu có sự nâng cao hiệu quả năng lực làm việc của vi xử lý với thời lượng pin cải thiện , ở các mức giá chấp nhận được. Các vi xử lý điện áp thấp ULV (Ultra Low Voltage) tồn tại được một khoảng thời gian, nhưng điển hình chúng thường là cho các laptop siêu di động hướng tới đối tượng doanh nhân mà bạn có thể thấy là không bao giờ thấp hơn 2000 $ hoặc thậm chí nhiều hơn. Với sự xuất hiện của netbook, các laptop siêu di động như vậy sẽ không còn bán với giá thành quá cao, và Intel thừa nhận điều này với các sản phẩm CULV (Consumer Ultra Low Voltage )_ Các CPU tiêu thụ điện áp cực thấp. Cùng với việc xác lập lại thương hiệu có mức giá giảm, khoảng cuối năm 2009 và đầu năm 2010, những chiếc laptop sử dụng CULV được ra mắt đồng loạt. Giá thành giao động vào khoảng gấp 2-2.5 lần so với các netbook sử dụng nền tảng Atom cho hầu hết các laptop CULV, nhưng hiệu suất thường cao gấp ba lần và bạn đã có được một chiếc máy tính xách tay hoàn hảo với đặc thù di động của doanh nhân kèm bản đầy đủ của Windows 7 (thay vì bản Windows 7 Starter đã giản lược), RAM đủ để chạy tốt.
Vì vậy, tất cả những điều phải làm với Sandy Bridge là gì ? Vâng, Arrandale không bao giờ thực sự có thể hướng tới được các tiêu chí của bộ vi xử lý CULV, các vi xử lý Arrandale ULV cho phép cải thiện hiệu năng, nhưng đổi lại là thời lượng pin, và mức giá đa phần trên hầu hết các phiên bản đều cao hơn so với khả năng chi trả của người tiêu dùng . Với Sandy Bridge, Intel nghĩ ra một cách mới để có thể bán các vi xử lý ULV: Ultrabook. Chắc chắn, về bề nổi, sẽ có nhiều hơn một chiếc laptop siêu di động một số điểm cùng yêu cầu trên tất cả các sản phẩm đều phải trang bị SSD, ultrabooks cũng vay mượn rất nhiều từ các tài liệu thiết kế cho MacBook Air. Hiện tại, chúng tôi vẫn đang chờ đợi về tiêu chí cuối cùng của một chiếc ultrabook , nhưng ngay cả như vậy thì cũng đã có khá nhiều điều để bàn về những chiếc laptop siêu mỏng này. Nhờ được cải thiện bởi Turbo Boost và đồ họa HD 3000, vậy nên chắc chắn rằng sẽ có nhiều người hâm mộ xu hướng thiết kế mỏng và nhẹ phải thực sự nán lại để xem xét tới sản phẩm mới này.
Sự xuất hiện của Ivy Bridge ở thời điểm hiện tại cũng là tất yếu cho khuynh hướng trên. Năm ngoái, với Sandy Bridge, tôi thừa nhận rằng Sandy Bridge chắc chắn quan trọng đối với Intel để duy trì sự cân bằng của phân khúc di động. Các phiên bản trên máy tính để bàn chắc chắn hết sức hấp dẫn, nhưng việc tiết kiệm thêm một vài watt cho một IGP thay vì GPU rời có lẽ không quan trọng quá nhiều đối với máy tính để bàn, và hiệu suất thì cũng chỉ nhanh hơn ở mức độ vừa phải so với kiến trúc Lynnfield. Thậm chí Intel dường như cũng thừa nhận Sandy Bridge phù hợp nhiều hơn cho máy tính xách tay bởi thực tế rằng nhiều CPU cho máy tính chỉ có HD 2000 IGP được hạn chế bớt đi thay vì hỗ trợ đầy đủ HD 3000 IGP-và cũng trớ true là các phiên bản cao cấp K-series SKUs IGP đầy đủ (song được không sử dụng nhiều). Ivy Bridge bản chất là sự tiếp nối của Sandy Bridge, mà hoàn toàn phù hợp với lộ trình "Tick Tock" được Intel đặt ra.
Với "tích", Ivy Bridge có sự chuyển dịch sang một quy trình công nghệ mới (các transitor 22nm tri-gate), nhưng ngược lại phần lớn tách rời với nền tàng tiền nhiệm Sandy Bridge. Có lẽ sẽ vẫn là các CPU dual-và quad-core mà có thể chạy trên cùng một socket (Intel mới chỉ đang cụ thể các phần quad-core IVB ở thời điểm hiện tại, mặc dù các phần dual-core cũng sắp sửa được ra mắt), song điều Ivy Bridge có thể đạt được nhiều hơn là việc thay thế Sandy Bridge (ít nhất là trên các máy tính để bàn), với yêu cầu bạn có một BIOS được cập nhật. Sau đó, Intel cũng quyết định sẽ thực hiện những điều thú vị bằng cách bắt đầu quá trình "tock" với GPU HD 4000 IGP của Ivy Bridge mang lại cho Intel khả năng tiếp cận với DX11, hứa hẹn 1 cải thiện khá đáng kể trong hiệu năng IGP cùng với khả năng tương thích với các game và ứng dụng DX11. Kết quả, đó là Ivy Bridge được đánh dấu cho một quá trình "tick+".
Kể từ lúc mới đầu, IGP của Intel đã được đánh giá không cao, nhưng với đồ họa HD Graphics của Arrandale thì cuối cùng Intel cũng đã bắt đầu suy nghĩ để giải quyết các vấn đề liên quan tới hiệu năng và driver. Arrandale là không thực sự đủ nhanh với hầu hết các game, ngay cả ở các thiết lập ở mức chi tiết tối thiểu và độ phân giải thấp, song nó có thể xử lý giải mã Blu-ray và mạnh hơn ~ cụ thể là tăng gấp đôi hiệu suất so với thế hệ trước của Intel GMA 4500 IGP. Sandy Bridge về cơ bản lại tăng thêm gấp đôi một lần nữa, vì vậy trong quá trình của hai thế hệ, Intel đã đi từ một IGP hoàn toàn yếu với DX9 tới một cái gì đó mới chỉ tới mức tiệm cận mức độ phổ thông của các GPU AMD và NVIDIA. Nếu Ivy Bridge tiếp tục xu hướng này trong khi thêm tính năng DX11, nó sẽ kết thúc vững chắc trong lĩnh vực của các GPU hiện đại ... nhưng Intel không thực sự hứa hẹn rằng sẽ có nhiều cải tiến so với HD 3000. Thay vào đó, chúng tôi được hướng tới mong đợi về cải thiện hiệu suất tốt hơn từ 30-60% (đôi khi nhiều hơn) so với HD 3000, có nghĩa là vẫn có mức tăng đủ cho các thiết lập game "Giá trị" (về cơ bản mục tiêu ở mức chi tiết trung bình với 1366x768) cho phép có thể chơi trên hầu hết các game.
Thực tế, thì đây không chỉ là về hiệu năng đồ họa. Việc có phần cứng GPU tốt nhất sẽ không đem lại lợi ích gì cho bạn, nếu phần cứng của bạn không hoạt động tốt với tất cả các trò chơi và các ứng dụng mới nhât, điều đó cũng có nghĩa là yêu cầu driver hỗ trợ phải tốt. Intel cam kết cung cấp driver tốt hơn trong vài năm qua, và thực sự là họ đã thực hiện được điều đó. Tuy nhiên, cả AMD và NVIDIA đã chuyên về đồ họa hiệu năng cao trong một thời gian dài. Nói chung họ có một đội ngũ viết driver, và thực hiện các thử nghiệm liên qua tới khả năng tương thích với game mạnh hơn. Do không thể cung cấp các thử nghiệm riêng, nên chúng tôi sẽ cho chạy các thử nghiệm trên cả hai nhóm game của năm 2012 và 2011, cùng với việc chạy một số trò chơi khác mà chúng tôi thường không dùng để đánh giá benchmark, với mục đích chính là chỉ để xem chúng tôi sẽ gặp phải bao nhiêu vấn đề trên các driver.
Bài viết này chủ yếu sẽ tập trung ở khía cạnh di động của kiến trúc Ivy Bridge. Chuyển sang một tiến trình sản xuất mới cho phép cải thiện về yêu cầu điện năng và cả vấn đề liên quan tới nhiệt độ, và do đó đồng thời sẽ giúp cải thiện cả thời lượng pin sử dụng tốt hơn? Làm thế nào để HD 4000 IGP mới có thể nâng cao hiệu suất , cũng như có cải thiện về vấn đề năng lượng? Chúng ta biết rằng đây là nền tảng đầu tiên của Intel với bóng bán dẫn 22 nm và silicon đầu của một nút tiến trình mới thường sẽ không đạt được hiệu quả như những gì chúng ta có thể thấy trong vòng sáu tháng. Cuối cùng, chúng tôi cần phải đề cập đến chiếc laptop mà chúng tôi sẽ đánh giá, cơ bản đây là sản phẩm được ra công bố sớm, phiên bản cuối có lẽ trông giống như thứ chúng tôi hiện có, nhưng có một vài chú ý là sản phẩm này không được bán lẻ. Chúng ta sẽ tiếp tục thảo luận thêm về nội dụng này. Có một điểm cần lưu ý thêm là trong khi kết quả có được sau đây phản ánh cho các tính năng của Ivy Bridge trên một phạm vi đánh giá chung, thì yếu tố thay đổi firmware hoặc khác biệt giữa các laptop có thể làm cho kết quả hiệu năng cao hơn (hoặc thấp hơn) trên các sản phẩm thực tế. Với quan điểm đó, chúng ta hãy xem qua một số đại diện của Ivy Bridge cho thiết bị di động và cùng cảm nhận những gì mà chiếc ASUS N56VM mang lại.
Thế hệ vi xử lý Ivy Bridge mới dành cho thiết bị di động
Tương tự như việc cho ra mắt Sandy Bridge, Intel cũng bắt đầu từ các vi xử lý cao cấp Ivy Bridge và sẽ thực hiện theo lộ trình công bố từ cao xuống thấp. Như đã biết, có sáu vi xử lý di động với nền tảng Ivy Bridge được giới thiệu vào thời điểm này: một phiên bản Extreme Edition, hai phiên bản i7 cho người dùng cuối, và ba phiên bản i7 cho OEM. Bạn sẽ thấy rằng là các CPU Core i3, Core i5, hoặc vi xử lý Pentium không được nhắc đến, nhóm vi xử lý này sẽ được công bố sau (mặc dù đã có một số thông tin bên lề đề cập về những đại diện sắp xuất hiện). Dưới đây là tóm tắt đầy đủ của các CPU Ivy Bridge di động, tất cả đều là quad-core:
Intel thường dành một số sản phẩm của họ cung cấp riêng cho các OEM cùng với các mẫu bán lẻ khác, và giá về trên các sản phẩm này sẽ không được tiết lộ. Chúng tôi đã tách các mẫu SKU bán lẻ trong bảng trên và các phiên bản OEM trong bảng dưới. Và như thường lệ phiên bản i7 Extreme Edition-3920XM mạnh nhất, luôn là đại diện có mức giá cao nhất. Chi phí gần gấp đôi so với i7-3820QM, bạn được bổ xung thêm 100MHz xung nhịp của CPU và 50 MHz của GPU, cùng với mức TDP 55W. (Vì xử lý này có hệ số nhân hoàn toàn mở , song tôi không nghĩ rằng điều này thực sự hữu ích cho những chiếc máy tính xách tay). Hai mẫu bán lẻ còn lại cũng có sự chênh lệch mức xung nhịp của CPU là 100MHz, nhưng phiên bản 3720QM có giảm dung lượng bộ nhớ cache L3 còn 6MB.
Chuyển sang các mẫu OEM và cũng tương tự như điều chúng ta thấy với ở các vi xử lý Sandy Bridge khi mới công bố, cũng chỉ có một số đại diện được giới thiệu. i7-3615QM tiếp tục giảm xuống 300MHz so với 3720QM, và tốc độ GPU cũng giảm xuống 50 MHz. Mẫu 3610QM về cơ bản không có nhiếu sự khác biệt ngoại trừ package khác và tốc độ xung nhịp GPU tối đa thấp hơn. Nếu xem xét kỹ, có thể thấy i7-3612QM thực sự khá thú vị, với tốc độ thấp hơn 200-300MHz so với hai đại diện còn lại, nhưng nó cũng giảm giá trị TDP xuống 35W-lần đầu tiên chúng ta thấy Intel tạo ra một CPU quad-core có mức TPD 35W. Tất nhiên giá trị TDP là không phải là tất cả, nhưng nếu điều này có nghĩa là thời lượng pin tốt hơn mà không phải hi sinh thêm nhân xử lý thì có thể đây sẽ là sự lựa chọn hấp dẫn với một số người. Với Sandy Bridge, mẫu Core i7-2630QM khá phổ biến trong các OEM, và các phiên bản i7-361xQM có thể sẽ dựa trên mẫu xử lý này.
So các vi xử lý lứa đầu của Sandy Bridge, các đại diện quad-core của Ivy Bridge có mức xung nhịp trung bình cao hơn 300-400MH, nhưng so với các dòng sản phẩm Sandy Bridge mới đây thì Ivy Bridge chỉ tăng thêm cho bạn 100-200MHz (ví dụ như 2760QM có mức xung nhịp cơ bản 2.4GHz và turbo tối đa là 3,5 GHz, 200MHz cao hơn so với phiên bản i7-2720QM gốc). Về kiến trúc, nói ngắn gọn là bạn đã nhận được sức mạnh có hiệu năng tốt hơn, IPC (tập lệnh mỗi xung nhịp) có cải tiến đôi chút, một số thay đổi về bảo mật, và một vài tập lệnh mới. Hầu hết những thay đổi này sẽ không có tác động ngay lập tức về hiệu năng, và rất có khả năng là phần lớn người sử dụng sẽ không nhận thấy sự hiện diện của chúng . Những thay đổi thực sự về mặt đồ họa, như chúng ta sẽ thấy là thay đổi đáng kể nhất.
Các chipset di động mới
Kèm theo các mẫu CPU Ivy Bridge, Intel cũng giới thiệu các chipset mới _ Intel 7-Series Mobile Chipsets .Đây là một bảng tóm lược, tổng quan về chúng:
HM77 được đánh giá là nền tảng chipset khá hứa hẹn, như nó hỗ trợ 4 cổng USB 3.0, công nghệ đáp ứng thông minh của Intel (Smart Response Technology), sử dụng một ổ SSD kích thước nhỏ làm thiết bị bộ nhớ đệm để cải thiện hiệu suất tổng thể mà không từ bỏ khả năng lưu trữ của ổ đĩa cứng. Mặt khác, các laptop được chú trọng đến giá trị sẽ có chipset HM75 và HM76 để giảm chi phí. Các chipset dòng Q-chủ yếu tập trung trên máy tính xách tay dành cho đối tượng doanh nhân, trong khi UM77 sẽ thuộc về phân khúc thị trường ultrabook / laptop siêu di động. Bên cạnh các tính năng trên, tất cả các chipset 7-series hỗ trợ công nghệ Anti-Theft của Intel (khả năng khóa một máy tính xách tay từ xa nếu nó bị đánh cắp), Wireless Display (WiDi - bạn sẽ cần một bộ chuyển đổi ở phía bên hiển thị), và hỗ trợ lên đến ba màn hình đồng thời (tăng từ hai màn hình trong các chipset Sandy Bridge/6-series).
Cảm nhận ASUS N56VM
Hai hãng Intel và ASUS đã hợp tác với nhau để chuẩn bị cho ra mắt phiên bản đầu mẫu máy tính N56VM sử dụng vi xử lý di động Ivy Bridge. Vâng, vì vậy nên phiên bản phần cứng mà chúng tôi nhận được tại thời điểm này không phải là mẫu cuối cùng, và nó cũng là chiếc notebook trái ngược với mộtlaptop thông thường. Mặc dù vậy, N56VM vẫn hết sức ấn tượng với những cảm nhận ban đầu.
Về ý kiến cá nhân, tôi hoàn toàn ưng ý với kiếu dáng thiết kể của N56VM. Chúng ta đã từng quan sát các laptop ASUS N-series trong quá khứ, nhưng sự tiếp nối ở đây đã được cải thiện thêm nhiều về mặt thẩm mỹ bên trong. Ta thường thấy ở phần để tay của máy thường làm từ nhôm hoặc một số kim loại khác,thì trong thực tế nó chỉ nhựa bạc, song vẫn rất đẹp. Có một yếu tố của MacBook Pro chắc chắn xuất hiện trên sản phẩm, chỉ không có chi phí gần cao tương tự. Vỏ màn hình LCD tăng cường thêm bằng nhôm ở đằng sau và có cảm giác chắc chắn hơn nhiều so với chiếc Sony VAIO SE.
Về các thiết bị đầu vào, bàn phím được nhận xét tích cực với chất lượng bàn phím tốt và không bị vênh hoặc bung. Điểm mà ASUS tiếp tục làm tôi chú ý là cách bố trí 10 phím số của họ, chuyển vị trí 10 phím này sang phải một chút và dành không gian gấp đôi cho phím 0. Nếu bạn đã quan sát bàn phím của VAIO SE thì bạn sẽ biết điểm chúng tôi thích ở đây, ASUS - đó là một chút thay đổi đơn giản thực hiện được mà không đòi hòi việc thiết kế lại một cách cơ bản. Ngoài ra chúng ta còn nhận được cả đèn nền – các phím F3/F4 được thiết lập cho tính năng này. Tôi hy vọng rằng việc không được trang bị đèn nền trên sản phẩm đánh giá của chúng tôi chỉ đơn giản vì đây là các mẫu được giời thiệu sớm. Tuy nhiên, tôi lo lắng rằng ASUS sẽ loại bỏ tính năng này và thay vào đó là một bàn phím không có đèn nền phía sau. Theo tôi thì tất cả các laptop mà chi phí lớn hơn 800 $ sẽ bao gồm bàn phím có đèn nền kèm theo.
Thiết bị đầu vào khác là touchpad, và ASUS trang bị một touchpad ElanTech có thể click trực tiếp khá rộng, giống với kích thước trên một MacBook Pro 15. Touchpad hoạt động tuyệt vời với hầu hết các phần, miễn là bạn thích cả đặc điểm cho phép click được; mặc dù thực sự khôn hẳn thích đặc điểm này, nhưng tôi có thể que dần để nó không trở nên phiền toái. Các các cử động làm việc rất tốt cho thao tác cuộn, đem lại một trải nghiệm tốt hơn so với hầu hết các touchpad khác tôi đã sử dụng. Tuy nhiên, khá lạ, , nếu bạn dùng hai ngón tai kéo một trang web xuống thi nó tiếp tục di chuyển sau khi bạn không thực hiện nữa, thoa tác cuộn trên touchpad không ôn định khi ngón tay của bạn đã rời khỏi. Điều đó có vẻ như một vấn đề liên quan tới driver hơn, và nó không phải là một vấn đề lớn, nhưng đáng để chỉ ra. Một lần nữa, nói chuyện về cảm nhận cá nhân của tôi , tôi muốn có các nút rời và mà không cần touchpad có thể click. Khác so cho quan điểm thẩm mỹ đẹp hơn, các nút bấm sẽ không tốt hơn khi được tích hợp vào bề mặt touchpad.
Cạnh trái với sự xuất hiện của nhiều cổng giao tiếp.
Cạnh phải.
Với các thành phần phần cứng còn lại, đây là một tóm tắt các thông số kỹ thuật của sản phẩm chúng tôi thực hiện.
Thông số kỹ thuật ASUS N56VM (Có tính chất tham khảo- phiên bản phát hành có thể khác với phiên bản thử nghiệm này) |
|
Processor | Intel Core i7-3720QM (Quad-core 2.60-3.60GHz, 6MB L3, 22nm, 45W) |
Chipset | Intel HM77 |
Memory | 8GB (2x4GB) DDR3-1600 |
Đồ họa | Intel HD 4000 (16 EUs) NVIDIA GeForce GT 630M 2GB DDR3 (96 CUDA cores, 475/950/1800MHz Core/Shader/RAM) |
Display | 15.6" WLED Matte 16:9 1080p (1920x1080) (LG Philips LP156WF1) |
Ổ đĩa cứng | 750GB 7200RPM HDD (Seagate ST9750420AS) |
Ổ đĩa quang | Blu-ray Combo Drive (Matshita UJ141AF) |
Networking | Gigabit Ethernet (Atheros AR8161) 802.11n WiFi (Intel Wireless-N 2230) Bluetooth 4.0 (Intel) WiDi 2.0 Ready |
Âm thanh | Bang & Olufsen Stereo Speakers Headphone and microphone jacks Capable of 5.1 digital output (HDMI/SPDIF) |
Pin | 6-cell, 10.8V, ~5.2Ah, 56Wh |
Cạnh trước | Memory Card Reader |
Cạnh trái | 2 x USB 3.0 HDMI 1.4a Gigabit Ethernet Exhaust vent VGA Subwoofer jack |
Cạnh phải | Headphone jack Microphone jack 2 x USB 3.0 Optical Drive AC Power Connection Kensington Lock |
Cạnh sau | N/A |
Hệ điều hành | Windows 7 Professional 64-bit (via Intel) |
Kích cỡ | 14.97" x 10.09" x 1.12-1.34" (WxDxH) (380mm x 256mm x 28.4-34.0mm) |
Cân nặng | 6.01 lbs (2.73kg) |
Tính năng khác | HD Webcam 102-Key keyboard Flash reader (MMC/SD/MS Pro) 120W Power Adapter |
Tôi sẽ không tập trung quá nhiều về các thông số phần cứng của N56VM, phần lớn là do chưa thực sự chắc chắn liệu sản phẩm chính thức sẽ bao gốm tất cả các đặc điểm này hay không. Sau khi yêu cầu cả Intel và ASUS về giá và các lựa chọn cấu hình, hãng Intel cho biết mức giá bán lẻ sẽ vào khoảng 1000 $ tới 1100 $ và ASUS thì cũng cung cấp là từ 1000 $ đến 1300 $, tùy theo cấu hình cụ thể. Khi liên hệ với ASUS, họ có nói là có thể sẽ đưa GPU trên nền tảng Kepler nhanh hơn vào phiên bản dành cho thị trường Mỹ (khác với GT 630M trong sản phẩm đánh giá của chúng tôi), CPU có thể sẽ là i7-3610QM, hỗ trợ Blu-ray tùy theo mẫu, và một số cấu hình vừa phải với ổ quang DVDRW, cùng độ phân giải LCD thấp hơn 1366x768.
Vẫn tiếp tục về cấu hình phần cứng, tôi có một vài điều nhận xét liên quan tới GPU của NVIDIA. Đầu tiên, chiếc laptop được đánh giá có bản driver NVIDIA cũ hơn 290.47 (khoảng tháng 11 hoặc 12 năm ngoái) mà ban đầu khiến cho các thử nghiệm về game của chúng tôi không chạy được, ngay cả khi sử dụng IGP. Một email ngay lập tực của NVIDIA cung cấp cho tôi bản update 296.54 ,nhưng yếu tố phiền toái còn lại vẫn không phải là dễ dàng khắc phục được. Nếu bạn nhìn vào tốc độ xung nhịp mà chúng tôi liệt kê ở trên, bạn sẽ nhận thấy rằng GT 630M chạy ở 475/950MHz xung nhân/ tốc độ đổ bóng điểm. Vấn đề là GT 540M, GT 630M bình thường chạy ở mức 672/1344MHz, do đó, tốc độ GT 630M thấp hơn 30% so với những gì chúng ta mong đợi. Đây là phiển bản phần cứng được giới thiệu sớm trước khi công bố chính thức, tôi hy vọng rằng các sản phẩm thực tế sẽ có tốc độ xung nhịp tốt hơn – với GT 640M hoặc thậm chí là GT 650 nâng tầm của N56VM từ một chiếc laptop phân khúc chính có thể xử lý game ở mức độ vừa phải lên một chiếc laptop chơi game thực thụ.
Ngoài ra có một số chi tiết trong quá trình đánh giá về chiếc ASUS N56VM được thử nghiệm này. Phím tắt điều chỉnh wireless trên bàn phím mà cho phép thay đổi WiFi on / off chúng ta thường thấy với các laptop của ASUS, nó thực sự không làm việc tốt. Thiết kế này cho phép kích hoạt / vô hiệu hóa Bluetooth, song WiFi sẽ chỉ có thể tắt / bật bằng cách sử dụng các phím tắt nếu chúng ta khởi động lại máy tính xách tay. Điểm hơi khác nữa là các chỉ thị đèn nền bàn phím trên các phím F3/F4; mặc dù rất mong đợi song không có chi tiết này trên sản phảm chúng tôi đánh giá.
HD webcam của N56VM
Tất cả điều này có nghĩa là chúng tôi đang đánh giá một chiếc laptop có thể có hoặc có thể không thực sự được công bố với cấu hình tương tự. ASUS chắc chắn sẽ cung cấp một số mẫu SKUs N56VM, và sẽ có các phiên bản với từng khu vực châu Á, Mỹ, Châu Âu, vv Hy vọng rằng chúng ta sẽ thấy một số phiên bản với một GPU nhanh hơn, đặc biệt hứa hẹn với nền tảng Kepler , còn với GPU mà chúng tôi đang thử nghiệm thì không có bất cứ điều gì đặc biệt cả.
Điều mà tôi hy vọng không thay đổi ở đây là về màn hình LCD. Không phải là màn hình 15.6 " 1080p tốt nhất, tôi đã từng thử nghiệm, tôi vẫn còn dành rất nhiều cảm tình cho các góc nhìn rộng ở màn hình IPS của Sony VAIO SE, nhưng về AU Optronics B156HW01 v4 thì lại là màn hình TN mà tôi yêu thích cho kích thước này. Tuy nhiên, màn hình của LG trên sản phẩm được đánh giá cũng là một sự lựa chọn tốt. Chúng tôi sẽ cung cấp cho những con số chi tiết sau, nhưng nó đủ để khẳng định là có khả năng tương phản tốt, tôi thích lớp phủ chống chói, và đèn nền đạt được sự tươi sáng (trên 400 nits) nếu cần thiết. Màu sắc chỉ ở mức chấp nhận và tôi chắc chắn có thể nhìn thấy hiệu ứng màu sắc được nội suy 6 bit(gần như với tất cả các panel TN), song ít nhất chúng ta cũng không gặp phải vấn đề với một màn hình LCD gương 1366x768 có tỷ lệ tương phản thấp là 200:1.
Một điểm khác cũng đáng được khen ngợi ở chiếc ASUS N56VM là loa. Tôi đã thấy các laptop của ASUS có kèm theo thương hiệu Bang & Olufsen từ trước, nhưng cho đến nay các loa tích hợp này vẫn đáng thất vọng. N56VM lại khác với khả năng tqoj ra âm thanh tốt mà không cần tai nghe. Tôi vẫn không nghĩ rằng nó tốt hơn so với Dell XPS 15 (XPS 15z không giống như N56VM _ với trường hợp cụ thể, XPS 15 cho âm thanh xa tốt hơn), nhưng ít nhất là ở phạm vi gần. Đó là một trong những chiếc laptop có chất lượng âm thanh tốt nhất mà tôi có cơ hội sử dụng trong những năm gần đây.
Đúng như danh tiếng, ASUS và Intel đã giới thiệu chiếc laptop thực sự cung cấp tất cả mọi thứ tôi mà tôi có thể đòi hỏi.. Hãy cùng lướt qua các kết quả benchmark và xem thử Ivy Bridge mang lại điều gì cho thế giới di động.
Ivy Bridge- Cải thiện hiệu năng ứng dụng
Nhận được chiếc laptop để đánh giá chính xác là một tuần trước đây, và trong khoảng thời gian đã quy định, chúng tôi lập tức thực hiện các phép thử với số lượng nhiều nhất có thể. Thật không may, điều đó đồng nghĩa nghĩa là chúng tôi không thể kiểm tra được hết mọi thứ, và một nội dung mà chúng tôi rất muốn biết là ASUS N56VM thể hiện ra sao với ổ SSD được thay thế cho ổ đĩa cứng cơ thông thường. Chúng tôi sẽ có kế hoạch hoán đổi các ổ đĩa trong tương lai gần và cuối cùng sẽ bổ sung thêm kết quả cả HDD và SSD, nhưng hiện tại chúng tôi đang đánh giá với cấu hình mà Intel đã gửi. Chúng tôi cũng tiến hành kiểm tra N56VM với đồ họa tích hợp HD 4000 được kích hoạt và với cả GT 630M-tối thiêu ở mức benchmark mà GPU tạo nên sự khác biệt.
Trong bảng xếp hạn sau, chúng tôi bổ sung một mẫu laptop mà chúng tôi đã có thể thực hiện được hầu hết các đánh giá: ngoài N56VM, chúng tôi có một chiếc bản laptop trang bị Sandy Bridge Core i7-2820QM, ASUS K53E với dual- core i5-2520M (và đồ họa không thể chuyển đổi), và các laptop gần đây: Blade Razer (một ultrabook chơi game) Acer TimelineU (ultrabook mới với GPU Kepler của NVIDIA), Sony VAIO SE (màn hình công nghệ IPS và HD 6630M đồ họa chuyển đổi), Toshiba P775D (thử nghiệm cuối cùng về Llano AMD A8-3520M, trước khi Trinity được công bố).
Vì không phải tất cả các laptop đều được trang bị với các thành phần giống nhau, nên về quan điểm chúng tôi đã lấy một chiếc notebook Sandy Bridge mà Intel đã gửi và cài đặt ổ đĩa cứng 640GB 5400RPM - ổ cững có trong ASUS K53E ( Sandy Bridge lõi kép) và chúng tôi sẽ cộng thêm điểm mà nó có ý nghĩa. Với cách này hy vọng sẽ cung cấp cho chúng ta một nhận định chính xác về quy mô hiệu năng mà chúng ta có thể mong đợi từ các laptop Ivy Bridge. Ngoài ra , kết quả còn phụ thuộc vào việc các đại diện trang bị ổ đĩa cứng, SSD, hay bộ nhớ đệm HDD + SRT. Lưu ý rằng đối với các benchmark mà chúng tôi cung cấp, sự hiện diện hoặc thiếu ổ SSD thực sự chỉ có ý nghĩa với các phép thử PCMark 7 và Vantage.
Trước tiên, IGP của Intel và Quick Sync với PCMark 7 có thể cho thấy sự khác biệt rất lớn. Điều thú vị là HD 4000 thực sự nhanh hơn GT 630M trong tất cả các nội dung thử nghiệm bằng PCMark 7, thường vời một ngưỡng khá lớn. Không rõ lý do là tại sao điểm khả năng lưu trữ đặc biệt chênh tới 8%, nhưng đay là điều chúng ta thấy. Đối với các nội dung còn lại, PCMark 7 thường chỉ đơn giản là phản ánh liệu là một hệ thống có hoặc không có trang bị SSD, vì vậy, chúng ta hãy chỉ tập trung vào các so sánh giữa Ivy Bridge và SNB + HDD.
Thật không may, chúng tôi không có thời gian và cả thiết bị phần cứng để sử dụng HDD giống nhau trên cả Ivy và Sandy Bridge. Do đó, từ ổ SSD Intel 160GB G2 tới ổ cứng Seagate 5400RPM rất có thể sẽ đưa kết quả của chúng ta quá chệch theo một hướng khác. Bên ngoài các thử nghiệm tính toán, sự có mặt của ổ SSD giúp tăng hiệu năng Sandy Bridge lên từ 33% (Entertainment) đến hơn 200% (Storage), với các điểm về Lightweight và Productivity tăng hơn gấp đôi.
Với bản chất lưu trữ trung tâm của PCMark 7, tôi không chắc chắn chúng ta có thể rút ra quá nhiều thông tin từ các biểu đồ, ngoại trừ là chỉ ra rằng với Ivy Bridge thực sự là các laptop được trang bị ổ cứng nhanh nhất chúng tôi đã thử nghiệm trong PCMark 7. Như là công cụ đánh giá nhanh chóng các tác vụ cơ bản, PCMark 7 ít nhất cũng thể hiện sự hữu ích, và có thể kết luận là HD 4000 sẽ xử lý các tác vụ thông thường mà không gặp chút khó khăn nào, đem lại trải nghiệm tốt hơn so với những gì bạn nhận được từ GPU rời , đặc biệt nếu bạn gặp phải bất kỳ vấn đề nào đến việc giải mã video. Chúng tôi sẽ có nhiều điều để nói, nhưng trước hết sau đây là phần còn lại của kết quả ứng dụng:
Sandy Bridge đã mang lại một cuộc cách mạng về hiệu năng CPU cho laptop, còn Ivy Bridge thì có vẻ ít ấn tượng hơn đôi chút. Vi xử lý I7-3720QM chắc chắn là nhanh hơn so với i7-2820QM (và nó có thể đánh bại Core i7-2920XM đã ép xung), Nhưng sự khác biệt từ chỉ 10 % trong các thử nghiệm đơn luồng Cinebench 11.5 tới 23 % với x264. Bạn có thể cho rằng ở đây có vấn đề, nhưng hãy nhớ i7-2820QM đã đánh bại thế hệ i7-820QM trước đó với mức khác biệt từ 50% đến 125%, trong khi cung cấp thời gian sử dụng pin cải thiện đáng kể. Bất kể gì,CPU i7-3720QM Ivy Bridge vẫn là CPU di động nhanh nhất mà chúng tôi từng thử nghiệm, và thật tuyệt khi thấy một hiệu suất ấn tượng như vậy từ một lựa chọn" quad-core". Dẫu vậy, nếu bạn đang tìm kiếm cùng một bước nhày tương tự mà chúng ta đã thấy với Sandy Bridge, bạn có thể sẽ thấy hơi thất vọng bởi kết quả của CPU. Với lý do đó, bạn sẽ phải chờ đợi cho thế hệ chip 22nm tiếp theo: Haswell.
Ivy Bridge: Quick Sync nhanh vượt trội và hiệu năng ấn tượng với 3DMark
Chúng ta đã xem qua một loạt các benchmark cho những ứng dụng chung, nhưng có hai khía cạnh mà Ivy Bridge thực sự có cải thiện hơn Sandy Bridge: Quick Sync và đồ họa tích hợp. Cách hai điểm này thực sự quan trọng phụ thuộc vào mục đích bạn sử dụng laptop của mình. Nếu bạn chỉ lướt web, xem video trên YouTube / Hulu / Netflix, và làm việc với Microsoft Office, phần nhiều những cải tiến trong Ivy Bridge sẽ không thực sự quan trọng. Song, nếu bạn chơi một số game hoặc chuyển đổi và tải video lên YouTube, hai cải thiện này sẽ cho thấy sự thay đổi lớn nhất so với Sandy Bridge.
Chúng tôi sẽ bắt đầu với đánh giá về khả năng mã hóa video, bằng cách sử dụng ArcSoft MediaConverter 7 và MediaEspresso CyberLink 6,5. Chúng tôi đã dùng cả hai tiện ích này trong quá khứ, và trong khi có một số thay đổi nhỏ, thì mục tiêu cơ bản tiếp tục là sự đơn giản của việc chuyển mã video. Nếu bạn theo đuổi chuyển mã video với chất lượng tối đa, bạn sẽ không thể đánh bại các tiện ích dựa trên CPU bằng cách sử dụng các bộ mã hóa chức năng cố định như Quick Sync. Thay vào đó, Quich Sync tất cả là tốc độ, và hy sinh một chút chất lượng cho các video của bạn được chuyển đổi nhanh hơn ở sự cân bằng chấp nhận được.
MediaConverter 7 không hỗ trợ nhiều trong các lựa chọn, vì vậy chúng tôi thử nghiệm với CPU và GPU-hay mã hóa tăng tốc Quick Sync. Đối với tất cả các thử nghiệm, chúng tôi đều sử dụng GPU tăng tốc giải mã, và việc tắt / kích hoạt tính năng này không có vẻ sẽ ảnh hưởng nhiều đến chất lượng, hiệu năng và với mặc định khi nó được kích hoạt. MediaEspresso có một vài lựa chọn, tùy thuộc vào cách bạn thực hiện chuyển mã. Đối với mã hóa Quick Sync và dựa trên CPU, bạn có thể lựa chọn giữa tốc độ và chất lượng cho việc chuyển đổi; với mã hóa bằng GPU NVIDIA hay AMD, bạn sẽ không có sự lựa chọn ở đây - chúng tôi giả định là việc mã hóa của GPU AMD và NVIDIA là nhiều hơn hoặc ít hơn tương đương với các thiết lập mã hóa "nhanh hơn" của CPU / Quick Sync. Dưới đây là ba bảng xếp hạng cho thấy hiệu suất của dual-core i5-2520M Sandy Bridge, quad-core i7-2820QM Sandy Bridge, Ivy Bridge quad-core i7-3720QM, Ivy Bridge với các hoạt động GT 630M, Llano A8-3500M, và Llano A8-3500M GPU tăng tốc mã hóa.
Trước tiên, GPU của AMD đều không xử lý kiểu tác vụ này được tốt, hoặc MediaEspresso và MediaConverter đều được tối ưu hóa hoàn toàn cho các GPU của AMD -hoặc ít nhất chúng cần nhiều hơn 400 nhân GPU trong HD 6620G. AMD có VCE của họ (Video Codec Engine), nhưng gần đây chúng tôi vẫn chưa thấy rằng nó có hoạt động - hơn bốn tháng sau khi ra mắt HD 7970 và VCE là vẫn là MIA; không được hấp dẫn ngay khi mơi nghe, và chúng tôi tự hỏi liệu phần cứng VCE thậm chí thực sự hoạt động tốt vào thời điểm này. Đối với NVIDIA, mã hóa dựa trên nền tảng CUDA của họ thể hiện tốt hơn một chút . Tuy nhiên, chỉ với 96 nhân CUDA của GT 630M đã giảm xung nhịp, nó vẫn không thể bằng khả năng mã hóa của CPU quad-core Ivy Bridge, với Quick Sync. Hiện tại, năng lực của Intel Quick Sync thật sự có hiệu suất cao, và nó đã trở nền nhanh hơn cả Sandy Bridge với thế hệ vi xử lý Ivy Bridge mới, luôn có tốc độ trên 70 đển 105%, tùy thuộc vào ứng dụng và các thiết lập người dùng.
Chúng tôi cũng có một cái nhìn khác về sự cải thiện liên quan tới hiệu năng của CPU với Sandy Bridge trong việc mã hóa video. Ở kết quả này, vi xử lý i7-3720QM tỏ ra nhanh hơn 15% so với i7-2820QM trong MediaConverter của ArcSoft, nhưng khá thú vị là i7-2820QM lại vượt lên nhanh hơn 10 đến 15% trong thử nghiệm MediaEspresso của CyberLink. Tôi không biết phải lý giải tại sao Ivy Bridge lại chậm hơn trong phép thử đó, nhưng có lẽ có một đặc điểm cụ thể được tối ưu hóa ở Sandy Bridge đã không được chuyển lại cho Ivy Bridge. Về phần Llano của AMD, không thấy được lợi ích thực sự của GPU khi hỗ trợ mã hóa, nó thường chốt ở giá trị gấp khoảng ba lần với Ivy Bridge/Sandy Bridge trong thiết lập riêng của các thử nghiệm, và chất lượng mã hóa thậm chí còn tồi hơn, đòi hỏi phải hơn sáu phút để hoàn thành thử nghiệm mã hóa của chúng tôi so với chỉ hơn một phút trên Sandy Bridge / Ivy Bridge lõi tứ. Ngay cả các chip Sandy Bridge lõi kép vẫn nhanh hơn đáng kể so với Llano.
Điểm khác đáng chú ý nữa là hiệu năng Intel Quick Sync hoàn toàn tách biệt với bộ vi xử lý; nó là một bộ mã hóa chức năng cố định nằm trên phần GPU của đế bán dẫn. Điều này có nghĩa là bạn thường có cùng hiệu suất cho dù bạn có CPU quad-core cao cấp hoặc CPU lõi kép cấp thấp hơn. Tiếp theo là Quick Sync thực sự hữu ích trong trường hợp nào, bạn có thể thấy trong bảng xếp hạng của chúng tôi Quick Sync nhanh hơn rất nhiều so với việc chuyển mã của CPU quad-core, nhưng nếu bạn có một CPU quad-core, bạn thực sự sẽ không phải chờ đợi lâu cho hầu hết các công việc chuyển mã. Mặt khác, bộ vi xử lý Dual-core cũng cho tốc độ bằng gần một nửa so với lựa chọn quad-core, và kết quả là Quick Sync trên vi xử lý dual-core Ivy Bridge sẽ nhanh hơn nhiều lần nữa so với việc chuyển mã dựa trên CPU.
Như đề cập trước đó, Ivy Bridge có vẻ sẽ có hiệu năng về đồ họa nhiều hơn là so với hiệu năng của CPU, và chúng tôi thực sự rất vui về điều đó khi nhìn vào các kết quả 3DMark. Với các kết quả 3DMark, HD 4000 của Ivy Bridge thiết lập mọi thứ đều dưới mức HD 6630M của AMD và GT 525M của NVIDIA. Trong một số trường hợp, chúng ta thậm chí nhìn thấy trên cả sự cải thiện 100% so với i7-2820QM Sandy Bridge (ví dụ như 3DMark Vantage), và hiện tại Intel thực sự có thể để chạy DX11. 3DMark06 dường như là một kịch bản phù hợp hơn, tuy nhiên, với hiệu năng khoảng 50% so với Sandy Bridge và thậm chí còn cao hơn Llano A8 ở mọi thời điểm. Tất cả chúng ta đều biết 3DMark có nghĩa như thế nào khi đề cập về tác vụ game thực sự. Vì vậy, chúng ta sẽ di chuyển sang các benchmark cho game.
Ivy Bridge HD 4000: Vẫn có thể với trải nghiệm game trung bình
Chúng ta sẽ bắt đầu với các game năm 2012 gần đây. Mục tiêu của các thử nghiệm game 2012 là nhằm đạt được chất lượng hợp lý hơn là chất lượng chỉ ở mức tối thiểu, vì vậy chúng tôi đã đặt thông số với độ chi tiết trung bình cho các thiết lập Value và chi tiết cao cho các thiết lập Mainstream. Cùng với các phiên bản 2012, chúng tôi cũng chạy tất cả các thử nghiệm i game từ năm 2011 ở các cài đặt chi tiết trung bình. Điều chúng tôi sẽ làm là muốn phản ánh HD 4000 như thế nào so với HD 3000, HD 6620G (Llano A8), HD 6630M, và GT 640M.
Chúng tôi không được nhiều lựa chọn laptop thử nghiệm cho các game 2012 của chúng tôi, và Ivy Bridge có xu hướng nằm gần phía dưới của bảng xếp hạng Value của game, nhưng đó chỉ là một phần của câu chuyện. Trong bảy game chúng tôi đã chọn để thử nghiệm hiện tại, hai trong số đó thất bại với việc cung cấp tốc độ khung hình chấp nhận được: Battlefield 3 và Civilization V. Civilization V có thể chơi với tốc độ khung hình thấp, vì nó không phải là một trò chơi thời gian thực, nhưng chúng tôi vẫn mong đợi một kết quả > 30 FPS. Ngược lại, Battlefield 3 nhận xét đơn giản là “quái vật”. Nếu bạn đang ở chế độ nhiều người chơi của BF3, bạn sẽ muốn có một GPU nhanh hơn, và chúng tôi xin được đề nghị về NVIDIA GT 555M hoặc AMD HD 6730M là một lựa chọn hợp lý hơn để xử lý BF3 ở các mức thiết lập Value (trung bình).Các trò chơi còn lại tất cả đều chạy được ở mức chấp nhận, ngoại lệ chỉ có thể là Portal 2. HD 4000 không may có thể giảm xuống dưới 30 FPS trên một số cấp độ của Portal 2, có nghĩa là mặc dù tỷ lệ khung hình trung bình cao tương đối, song đôi khi vẫn xuất hiện các vệt không thể chơi được.
Vài điều sau đây trở nên khá thú vị nếu chúng ta bỏ qua so sánh với tất cả các GPU rời nhanh hơn. Chúng tôi đang quan sát mười lăm game từ hai hoặc ba năm qua, tất cả đều chạy ở mức thiết lập chi tiết trung bình 1366x768. So sánh Sandy Bridge và Ivy Bridge, HD 4000 kết thúc với tốc độ nhanh hơn gần 50 % so với HD 3000 ở mức trung bình. Game duy nhất chúng tôi không nhìn thấy sự tăng đáng kể nào về hiệu năng là Civilization V.
Chúng tôi đã phán đoán trong quá khứ về vấn đề mà đồ họa tích hợp của Intel gặp phải là hiệu ứng đổ bóng hay hình học. Nó cũng phần nào giải thích được cho sự chậm lại trên một số game khác được thử nghiệm (ví dụ như Portal 2 và Left 4 Dead 2 cả hai đều bị giảm tỷ lệ khung hình với IGPs của Intel) . Một câu chuyện tương tự, khi kích hoạt công nghệ tessellation trong Deus Ex: Human Revolution hoàn toàn đánh bại tốc độ khung hình trên HD 4000 - nó hoàn toàn chơi được với hầu hết các thiết lập chất lượng có thể , nhưng việc bật tessellation, đồng thời tốc độ khung hình cũng sẽ tụt xuống gần một nửa. Hy vọng rằng, Haswell của IGP sẽ có được khả năng xử lý đổ bóng và hình học cần thiết trên các vi xử lý nhanh nhất. Intel đã tiếp tục cam kết của họ liên quan đến cải thiện sức mạnh đồ họa qua nhiều thế hệ vi xử lý. Dưới đây là minh họa tốt nhất bằng một so sánh với chỉ IGP chính còn lại, AMD Llano:
Chúng tôi sử dụng hai tập kết quả khác nhau cho biểu đồ trên, một từ laptop Llano A8-3500M AMD (với các game năm 2011) và thứ hai là Toshiba Satellite P755D với A8-3520M. Các thanh màu đỏ cho thấy các game AMD dành chiến thắng, thanh màu xanh lá cây cho là với ưu thế của Intel , và các thanh màu xanh là cho mối quan hệ.Thu thập tất cả kết quả của các game với nhau, những gì chúng ta kết luận là giải pháp Intel HD 4000 cung cấp một trải nghiệm cơ bản tương tự như với Llano A8 trong khả năng tổng thể liên quan đến game.
Core i7-3720QM vs. AMD A8-3500M/3520M Gaming Perforamnce Comparison |
||
HD 4000 | HD 6620G | |
Total War: Shogun 2 | 27.4 | 36.9 |
StarCraft II | 27.7 | 26.9 |
Stalker: Call of Pripyat | 48.3 | 46.7 |
Portal 2 | 53.9 | 66.1 |
Metro 2033 | 26.9 | 26.9 |
Mass Effect 2 | 43.6 | 42.1 |
Mafia II | 28.5 | 30.4 |
Left 4 Dead 2 | 40.2 | 35.5 |
Elder Scrolls: Skyrim | 42.7 | 30.4 |
DiRT 3 | 41.9 | 37.7 |
DiRT 2 | 36.5 | 43.2 |
Civilization V | 15.6 | 26.2 |
Battlefield: Bad Company 2 | 39.0 | 37.3 |
Battlefield 3 | 21.9 | 20.7 |
Batman: Arkham City | 49.0 | 39.0 |
Average of 15 Titles | 36.2 | 36.4 |
Có một số tựa game mà AMD vượt lên đáng kể (Civ5, DiRT2, Portal 2, và Total War: Shogun 2), và một số tựa game mà Intel có lại dẫn lại tương tự (Batman, DiRT 3, Left 4 Dead 2, và Skyrim) . Không nền tảng nào sẽ xử lý được các thiết lập với mức chi tiết trung bình 1366x768 cho mỗi game, nhưng cả hai nói chung có thể thấy là đủ nhanh để xử lý được hầu hết các tựa game đó. Dưới đây là những con số chi tiết:
A8-3500M/3520M không phải là Llano nhanh nhất, và các hệ thống Llano chúng tôi thử nghiệm cả hai đều sử dụng bộ nhớ DDR3-1333. Hiệu năng Llano sẽ được cải thiện khoảng 20% (5-10% cho bộ nhớ RAM, và 10-15% cho CPU). Chúng ta biết AMD sẽ cho ra mắt Trinity với hứa hẹn sẽ cải thiện hiệu suất của GPU Llano, họ cũng gợi ý là Trinity sẽ nhanh hơn khoảng 50 %.
Còn về Driver?
Tất nhiên, có một câu hỏi khác mà luôn luôn xuất hiện khi chúng ta đề cập tới IGP Intel: chất lượng driver. Khi Sandy Bridge được ra mắt, chúng tôi đã làm một cuộc điều tra tương tự và thấy rằng có những vấn đề gặp phải tùy mức độ với bốn trong hai mươi trò chơi thử nghiệm. Chúng tôi đã giảm danh sách lần này còn 15 game, và nếu chúng ta chỉ quan sát vào các game thì rõ ràng có một số vấn đề liên quan tới driver chúng ta gặp phải. Đầu tiên là không quá nghiêm trọng: StarCraft II có vẻ thiếu bộ nhớ với các driver hiện tại của HD 4000, nó thường sử dụng gần 4GB bộ nhớ RAM sau khi 10 đến 15 phút. Tuy nhiên, trước khi cạn bộ nhớ, hiệu suất nói chung là có thể chơi được , và HD 3000 có lẽ không gặp phải vấn đề này.
Thứ hai là với Battlefield 3, gần như tất cả mọi thứ đều ổn, nhưng chữ hiển thị (ví dụ như phụ đề và một số yếu tố HUD) theo tôi là chưa được tốt, và thao tác điều hướng menu cũng không chính xác trong chế độ toàn màn hình,. Hơn nữa, BF3 sẽ mất đi menu hoàn toàn sau khi chuyển lên một mức độ, và thường yêu cầu khởi động lại để phục hồi trạng thái. Tuy vậy, hiệu năng vẫn ở mức chấp nhận được ở các cài đặt với chi tiết tối thiểu.
Thời lượng pin:Có cải thiện song phụ thuộc vào laptop
Một thước đo quan trọng khác đối với Ivy Bridge là thời lượng pin. Chúng tôi sử dụng tiêu chuẩn thiết lập thử nghiệm thời lượng pin: 100 nits trên màn hình LCD, tương đương 25% trong thiết lập năng lượng của Windows cho chiếc N56VM, và sử dụng việc tinh chỉnh Power Saver. Sau đó, chúng tôi tính thời gian N56VM có thể kéo dài bao lâu khi không dùng nguồn trong các trường hợp Internet, nhàn rỗi, và các kịch bản phát i H.264, cùng với một số game trên HD 4000.
Một điều mà chúng ta cần phải chỉ ra là chiếc laptop Sandy Bridge i7 2820QM của Intel là một ví dụ tuyệt vời về cách để cung cấp thời lượng pin hết sức ấn tượng. Khó có thể đạt tới mức tương tự với bất kỳ laptop quad-core mà chúng tôi thử nghiệm trong một năm năm qua, nhưng sau đó hầu hết các laptop quad-core còn lại cũng bao gồm cả card đồ họa rời. So với các phiên bản notebook đặc biệt, thì Ivy Bridge của chúng ta có lẽ có thời gian sử dụng pin không bằng. Tuy nhiên, một khi chúng ta bắt đầu so sánh với các máy tính xách tay bán lẻ, đặc biệt có chuyển đổi đồ họa - Ivy Bridge sẽ cung cấp thời lượng pin cải thiện tốt hơn một chút so với Sandy Bridge.
Với pin 56Wh, N56VM cung cấp 5,5 tiếng với chế độ nhàn rỗi, năm tiếng với Internet, và chỉ dưới 3,5 tiếng khi bật H.264. Ở thiết lập pin tiêu chuẩn, N56VM đã đánh bại nhất phần lớn các laptop quad-core có Optimus.Tuy vậy, Dell XPS 15 lại vượt qua N56VM trong các kiểm tra về H.264 và trạng thái nhàn rỗi, Alienware M14x có một kết quả tốt hơn với trạng thái này, nhưng ASUS N56VM lại vượt trước 10% so với Sandy Bridge quad-core gần nhất trong các kết quả Internet. Về tổng thể thù đây là điều đáng chú ý, ASUS N56VM gần dẫn đầu trong các kết quả tiêu chuẩn với CPU quad-core. Tất nhiên có rất nhiều laptop khác cung cấp thời lượng pin tốt - đặc biệt là ultrabooks và netbook cùng với một số lựa chọn các Sandy Bridge lõi kép - nhưng không phải tất cả đều ổn định về hiệu năng giống với mức điện áp tiêu chuẩn Sandy / Ivy Bridge .
Chơi game với pin laptop
Một số bạn đã yêu cầu đánh giá thêm về thời lượng pin trong khi chơi game, nên chúng tôi cũng tiến hành thử nghiệm bằng 3DMark06 ở thiết lập 1366x768 cho đến khi xả hết pin. Sử dụng chế độ “Balanced” với HD 4000 để thiết lập trạng hái hoạt động cân bằng, N56VM tắt máy sau 79 phút. Kết quả có vẻ là một màn trình diễn kém ấn tượng , bạn sẽ thấy rằng ASUS K53E (Sandy Bridge dual-core i5-2520M) cũng chỉ kéo dài được 73 phút trong các thử nghiệm tương tự, trong khi cung cấp hiệu năng đồ họa thấp hơn 35%.
Điểm thú vị khác cần đề cập đến ở đây là chúng tôi đã từng đưa ra nhận định Llano là quán quân trong các thử nghiệm về game cơ bản. A8 3500M kéo dài 161 phút với 3DMark06 trong kết quả thử nghiệm đầu của chúng tôi. Song khá tiếc vì đầy là các thiết lập cho GPU để tối đa hóa thời lượng pin - có nghĩa là thấp hơn một nửa mức hoạt động bình thường của GPU. Với các thiết lập cho A8-3500M với hiệu suất tối đa (mà chúng tôi đang thử nghiệm choHD 4000), thời lượng pin trên 3DMark06 sẽ giảm xuống chỉ còn 98 phút khi sử dụng pin 58Wh. Vẫn còn tốt hơn so với thời lượng pin của HD 4000 trong khi cung cấp đồ họa cùng mức hiệu năng gần như nhau, mặc dù nó chỉ trang bị kèm màn hình LCD 14 ". Vì vậy chúng tôi sẽ không so sánh các nền tảng giống nhau khác. Cuối cùng,cùng chạy 3DMark06 trên N56VM có kich hoạt GT 630M (và thiết lập để "thích Hiệu suất tối đa") cho kết quả là 67 phút pin sử dụng.
Nếu chúng ta làm một phép tính nhanh, thì 3DMark06 sử dụng khoảng 41.7W khi kích hoạt HD 4000 so với 49.1W cùng GT 630M. Llano trong khi đó chỉ sử dụng 35.5W ở cùng mức tải tương tự. Đối với Ivy Bridge, sự khác biệt 7.4W khi chạy tải có ý nghĩa quan trọng, nhưng ở cùng thời gian NVIDIA và AMD GPU tỏ ra hiệu quả hơn về hiệu quả mà hay GPU này mang lại. Thật khó để nói chính xác là GPU sẽ tiêu thụ bao nhiêu năng lượng so với CPU và phần còn lại của hệ thống, nhưng GT 630M có thể tiêu thụ lên đến 35W và có thể sử dụng được với khoảng 20-25W ở một ví dụ cụ thể nào đó trong thử nghiệm này. Điều đó có nghĩa là cho hiệu năng ít hơn một nửa , HD 4000 có vẻ là sẽ tiêu thụ khoảng 13-18W. Song có một điều rõ ràng: Llano vẫn là chip dành ưu thể về mặt chơi game với việc sử dụng pin. Chỉ không may là CPU Llano gần đây đang bị tụt hậu, nhưng hy vọng rằng thế hệ Trinity sẽ thay đổi mọi thứ trong tương lai gần.
Màn hình LCD: Một trong những lựa chọn hấp dẫn
Có một vài điều chúng ta cần phải đề cập lại về màn hình LCD trước khi chúng ta bắt đầu với những con số thống kê dưới đây. Đầu tiên, đây là một màn hình được đánh giá tốt từ LG- cụ thể là LP156WF1 (A1). Bạn có một bề mặt mờ, độ phân giải 1080p, gam màu tốt (trên cả không gian màu sRGB), và độ sáng tối đa mà chắc chắn có thể sử dụng được ở ngoài trời. Tất cả đều tuyệt vời, nhưng có một lưu ý: chúng tôi không biết liệu màn hình này thực sự sẽ được phát hành trên tất cả các phiên bản của N56VM hay không . Hy vọng đó là lựa chọn đầu tiên, nhưng rất có thể nó sẽ là thứ hai, và chúng tôi rất vui nếu các màn hình 1080p vẫn được áp dụng với màn hình hiển thị 1366x768 rẻ hơn. Say đây là cách màn hình LG Philips tạo nên sự khác biệt so với các màn hình LCD khác.
Nhìn chung, đây là màn hình LCD ở phù hợp cho một chiếc laptop 15,6 ". Màn hình cho kết quả hình ảnh tươi sáng, điểm cộng cho chiếc laptop khi làm việc bên ngoài hoặc trên các phương tiện giao thông công cộng, độ tương phản tốt, cùng màu sắc trung thực . Mặc dù AU Optronics B156HW01 v4 thể hiện là một màn hình LCD tốt hơn trong một số nội dung, với gam màu cao hơn và cân chỉnh màu sắc tốt hơn , nhưng chúng ta cũng không phải phàn nàn gì về LP156WF1.
Góc nhìn khá tốt như AUO, nhưng ngoài IPS, PLS, hoặc panel VA, thì bạn đơn giản là sẽ không thể đạt được góc nhìn dọc xuất sắc. Màn hình IPS của Sony VAIO SE và HP Envy 15 có góc nhìn tuyệt vời, nhưng gam màu hơi thấp và kết quả dẫn tới màu sắc không phải là thật tốt như màn hình TN cao cấp, ít nhất là về lý thuyết. Vấn đề là các panel TN có sự thay đổi màu sắc, trừ khi bạn đang ở trong một góc nhìn hẹp, vì vậy cuối cùng chúng ta sẽ thích góc nhìn rộng của IPS hơn thậm chí đồng nghĩa là một số tham số khác thấp hơn.
Tổng kết
Về CPU, Ivy Bridge và Sandy Bridge thực sự không có nhiều khác biệt , nhưng rõ ràng là hơn qua các thống kê đánh giá của chúng tôi, nền tảng mới mà Intel giới thiệu có sự cải thiện tốc độ xử lý nhanh hơn. Trong một số ví dụ Ivy Bridge có lẽ chỉ nhanh hơn vài phần trăm so với Sandy Bridge, nhưng có những trường hợp i7 3720QM co kết quả nhanh hơn tới 23% so với i7-2820QM.
Ở khía cạnh nào đó, hình ảnh về Ivy Bridge hơi thiếu cụ thể. So với các laptop bán lẻ khác với Sandy Bridge quad-core, có vẻ như Ivy Bridge sẽ cung cấp thời gian sử dụng pin tương tự hoặc có cải thiện đôi chút. Với chạy tải nặng hơn, Ivy Bridge trên máy tính để bàn sẽ tiết kiệm hơn rất nhiều so với Sandy Bridge, nhưng với các tác vụ nhẹ về cơ bản là không có nhiều thay đổi. Một số laptop Sandy Bridge có khả năng quản lý thời lượng pin ở trạng thái nhàn rỗi hay với các tác vụ video tốt hơn so với ASUS N56VM. Do đây mới chỉ là các sản phẩm phần cứng mới ra mắt , nên chúng tôi chưa sẵn sàng để đưa ra bất kỳ kết luận chắc chắn nào, nhưng chúng tôi khá tin tưởng Ivy Bridge sẽ không phải là sự tụt hậu so với Sandy Bridge, và có lẽ cũng không thực sự tốt hơn nhiều so với người anh em trước đó của nó.
Ivy Bridge thực sự độc lập với các kết quả benchmark về sức mạnh đồ họa và tính năng Quick Sync. Về hiệu suất, trong khi Quick Sync cỉa Sandy Bridge là cách nhanh nhất để thực hiện yêu cầu chuyển mã,thì Ivy Bridge thậm chí còn tăng tốc độ xử lý lên gần gấp đôi. Ta đã có thể chuyển mã một đoạn clip 3:30 phút 1080p24 thành một video 720p chỉ trong 12 giây! Ngoài ra, về đồ họa, bạn sẽ lựa chọn GPU rời đề có hiệu suất chơi game tốt hơn, nhưng với các laptop bình dân và ultrabooks HD 4000 là một bước nhảy lớn liên quan đến hiệu năng của Intel IGP. HD 3000 Sandy Bridge đủ để đáp ứng tốc độ khung hình hợp lý 1366x768 và với mức chi tiết từ thấp tới trung bình. HD 4000 cung cấp hiệu suất tốt hơn trung bình khoảng 50% cùng với hỗ trợ DX11, hầu hết các trò chơi sẽ chạy ở > 30 FPS cho các thiết lập chi tiết trung bình. Tuy vậy, Intel vẫn cần phải có những cải thiện tốt hơn về các driver của họ. Chắc rằng, nếu mỗi thế hệ vi xử lý của họ cứ tiếp tục có những đột phá theo chiều hướng này, thì có thể một số nền tảng và các GPU NVIDIA và AMD thực sự sẽ chỉ còn phù hợp cho các game cap cấp.
Còn về chiếc ASUS N56VM, chiếc laptop mới mà chúng tôi đánh giá hiện tại sẽ cần một chút thay đổi để trở nên hoàn hảo hơn, có lẽ vì đây mới chỉ là phiên bản ban đầu chưa được bán chính thức. Và chúng ta hoàn toàn có thể tin tưởng về một chiếc laptop ấn tượng hơn sắp tới. Theo quan điểm cá nhân, một chi tiết mà chúng tôi muốn có sự cải thiện là bàn phím backlit, chúng sẽ rất hữu dụng trong các tình huống ánh sáng thấp. Ngoài ra, là một người yêu game, ngay cả trên một chiếc laptop sự lựa chọn GT 630M có lẽ không thực sự hấp dẫn trong thời điểm hiện tại. Bạn chắc hẳn cũng sẽ cảm thấy hơi thất vọng với các chip dựa trên nền tảng Fermi với hiệu năng thấp trong khi lại quá tiêu tốn năng lượng.