Nhịp sống số

Những card đồ hoạ đáng giá nhất trong 10 năm qua (Phần 1)

Những card đồ hoạ đáng giá nhất trong 10 năm qua (Phần 1)

"Đáng giá" ở đây không có nghĩa là mạnh nhất, đắt tiền nhất; mà có giá trị cao nhất tính trên từng xu bỏ ra, hay dân chơi phần cứng vẫn thường gọi có tỷ lệ p/p (hiệu năng / giá thành) tốt nhất, và phù hợp với số đông người tiêu dùng. Sau đây là danh sách trên 20 chiếc card đồ hoạ có giá dưới 200 USD nhưng sức mạnh không hề kém tại thời điểm ra mắt, do tạp chí Tom's Hardware bình chọn.


1. NVIDIA GeForce 2 MX


Chọn ra chiếc card đầu tiên không hề dễ dàng. Chúng ta phải xem xét khá nhiều model như Voodoo2 3000 hay TNT2 M64, nhưng sau cùng GeForce 2 MX được xem là chiếc card phổ thông tiêu biểu dựa trên một kiến trúc phái sinh và giá thành hợp lý.


Chỉ vài tháng trước khi thế giới bước qua thiên niên kỷ mới, NVIDIA tung ra GeForce 2 MX. Dựa trên tiến trình 180 nm, xung nhân 175 MHz và xung nhớ 166 MHz, chiếc card chỉ có 2 ống lệnh pixel so với đàn anh GeForce 256. Song mỗi ống lệnh của GeForce 2 MX lại có khả năng xử lý gấp đôi lượng texture so với tiền bối. Nhờ đó, hiệu năng của GeForce 2 MX rất gần với GeForce 256 trong một vài tựa game, dù giá thành của GeForce 2 MX chỉ 120 USD.

 

Những thông số đồ hoạ này nom có vẻ rất bình thường trong hôm nay, nhưng hơn 10 năm trước đây, GeForce 2 MX là chiếc card rất khá dành cho game. Nhiều năm sau khi ra mắt, nó vẫn giành được nhiều đề nghị cho hệ thống PC của bạn.

 

2. STMicroelectronics Kyro II


Cái tên STMicroelectronics (ST) ngày nay không còn quen thuộc với giới chơi game, nhưng vào 2001, đây là một nhà sản xuất card đồ hoạ hẳn hòi. Kyro II sử dụng GPU STG 4500 vốn dựa trên nền tảng chip PowerVR Series 3. STG 4500 sử dụng tiến trình 180 nm với 2 ống lệnh pixel, xung nhân và nhớ cùng hoạt động ở mức 175 MHz với một bề rộng nhớ 128-bit.

 

Dù vậy, hiệu năng của Kyro II trên các độ phân giải thấp không ấn tượng. Nhưng chuyển sang các độ phân giải cao hơn, chiếc card 150 USD của ST mạnh gần ngang ngửa các model cao cấp có giá thành gấp đôi từ các đối thủ.
 
Song, việc thiếu các năng lực đồ hoạ như chuyển đổi & đánh sáng (T&L) bằng phần cứng hoặc hỗ pixel shading đã khiến Kyro II trở nên lạc hậu trước các đối thủ NVIDIA GeForce 3 hay ATI Radeo 8500. Nhưng Kyro II vẫn là một model đáng giá trong những năm đầu thiên niên kỷ.
 
3. NVIDIA GeForce 3 Ti 200


Trong những ngày cuối của 2001, khi GeForce 3 Ti 500 nhận lấy mọi ánh hào quang từ giới đồ hoạ, GeForce 3 Ti 200 "lặng lẽ" nép mình với giá thành chỉ 200 USD. Chiếc card bình dân của NVIDIA có 4 ống lệnh đồ hoạ DirectX (DX) 8, xung nhân 175 MHz và xung nhớ 200 MHz (chỉ thấp hơn lần lượt 25 & 30 MHz so với bản GeForce 3 đầu tiên). GeForce 3 Ti 200 áp đảo hoàn toàn đối thủ ATI Radeon 7500 và đôi khi sánh ngang hàng với Radeon 8500 vốn đắt đỏ hơn.

 

Vấn đề của Radeon 8500 thực tế không ở phần cứng mà lại ở driver (ATI vẫn thường "nổi tiếng" về khoản này). Về sau ATI tung ra tiếp model Radeon 8500 LE có xung thấp hơn nhưng hiệu năng vẫn khá gần GeForce 3 Ti 200. Có điều với những ai yêu cầu sự ổn định, GeForce 3 Ti 200 vẫn giành được nhiều ưu ái hơn.

 

4. NVIDIA GeForce 4 Ti 4200


NVIDA tiếp tục tung ra thế hệ card đồ hoạ mới vào đầu 2002. Khác biệt duy nhất giữa 2 model có giá thành chênh nhau tới 100 USD chỉ nằm ở xung chiếc card:


 - GeForce 4 Ti 4600 (300 USD) - 300 MHz nhân & 325 MHz DDR nhớ

 - GeForce 4 Ti 4200 (200 USD) - 250 MHz nhân & 222 MHz DDR nhớ

 

Nhưng nhờ xung thấp hơn nhiều, khả năng overclock (OC) của GeForce 4 Ti 4200 trở nên rất đáng kể. Chiếc GPU được sản xuất trên tiến trình 150 nm với 4 ống lệnh pixel, phần thông số còn lại gần tương tự với đàn anh GeForce 3.


Nhờ các tính năng mới, thế hệ GeForce 4 của NVIDIA đạt được nhiều cải thiện về hiệu năng, bỏ xa model Radeon 8500 và trong một giai đoạn dài, ATI không có sản phẩm nào mạnh tương đương cho đến khi Raeon 9000 xuất hiện.

 

5. ATI Radeon 9500 Pro & 9600


Mặc dù ATI Radeon 9700 Pro chiếm được ngôi vị mạnh nhất về hiệu năng, nhưng giá thành đắt đỏ của nó không giúp ATI giành lại nhiều thị phần. Và ATI chỉ đạt được mục tiêu của mình khi ra mắt Radeon 9500 Pro vào cuối 2002, khi thị trường bị "đô hộ" bởi GeForce 4 Ti 4200.


Cùng dùng GPU R300 sản xuất trên tiến trình 150 nm với 8 ống lệnh đồ hoạ hỗ trợ DX 9, Radeon 9500 Pro tương tự Radeon 9700 Pro với hiệu năng ấn tượng nhưng giá thành chưa tới 200 USD. Xung nhân và nhớ lần lượt của nó là 275 & 270 MHz, chỉ thấp hơn model đầu đàn 50 & 35 MHz. Bù lại, bộ nhớ có bề rộng 128-bit chỉ bằng 1/2 so với Radeon 9700 Pro. Tuy thế, Radeon 9500 Pro vẫn giáng đòn mạnh vào GeForce 4 Ti 4200 và giành lại thị phần cho ATI.

 

Một điểm thú vị ở "lứa" model Radeon 9500 Pro đầu tiên : bằng các hiểu biết về mạch điện, các modder có thể hàn một cầu nối trên bo mạch (PCB) giúp đẩy bề rộng nhớ lên 256-bit, kết hợp với OC tăng xung chiếc card lên ngang tầm Radeon 9700 Pro, nhưng giá thành thấp hơn đáng kể. Thao tác này gần tương tự khái niệm unlock trên các sản phẩm của AMD (ATI) gần đây, có điều bạn sẽ không nhận được quy chế bảo hành sản phẩm nữa.


Radeon 9500 Pro dù là thành công lớn cho ATI, song chi phí sản xuất của nó lại khá đắt đỏ (có thể xem là bản dùng lại của Radeon 9700 Pro). Do vậy mà về sau, ATI tung ra tiếp Radeon 9600 Pro với chi phí thấp hơn. Radeon 9600 Pro chỉ có 4 ống lệnh đồ hoạ, nhưng nhờ tiến trình 130 nm, xung nhân và nhớ của nó đạt mức 400 & 300 MHz, giúp chiếc card mạnh ngang / hơn đàn anh Radeon 9500 Pro. Khả năng OC tốt của Radeon 9600 Pro cũng góp phần khiến nó là lựa chọn tốt cho phân khúc phổ thông.

 

6. NVIDIA GeForce 6600 GT


Sau thành công rực rỡ của dòng GeForce 4, GeForce 5 lại là một thất bại của NVIDIA. Mãi cho tới GeForce 6 mà mào đầu là model GeForce 6800 Ultra, hãng này mới giành lại vị thế đầu bảng card đồ hoạ. Song các model mạnh nhất lại thường có giá thành cao nhất. Ở phân khúc phổ thông, mãi tới thu 2004, NVIDIA mới giới thiệu GeForce 6600 GT.


Dù dùng giao tiếp nhớ 128-bit, GPU của GeForce 6600 GT được sản xuất trên tiến trình 110 nm, cho phép chiếc card hoạt động ở xung nhân và nhớ lần lượt 500 MHz & 500 MHz DDR. Hỗ trợ Shader Model 3.0, model GeForce mới này cạnh tranh trực tiếp chiếc card Radeon 9800 XT đầu đàn của ATI, nhưng giá thành chỉ 200 USD.

 

Model có cùng giá thành của ATI lúc đấy, Radeon X600 XT, hoàn toàn "không có cửa". Đến cuối 2004, ATI tung ra Radeon X700 XT để cạnh tranh nhưng hiệu năng vẫn kém GeForce 6600 GT. Tệ hơn là Radeon X700 XT toả ra lượng nhiệt khá cao và chỉ có phiên bản giảm xung mới gây chút chú ý trên thị trường.


GeForce 6600 GT cũng là model tầm trung đầu tiên mà NVIDIA áp dụng công nghệ SLI (trước nay công nghệ này chỉ áp dụng cho sản phẩm cao cấp). Và nhờ chính sách giảm giá tuần tự về sau (cạnh tranh với ATI), model này tiếp tục là sản phẩm được đề nghị mua sau thời gian ra mắt.

 

7. ATI Radeon X800 GTO


Đến thu 2005, ATI quyết định bổ sung một thành viên nữa vào dòng sản phẩm Radeon X800, nhưng ở cái giá "dễ chịu" với nhiều người - Radeon X800 GTO. Chiếc card mới có 12 ống lệnh đồ hoạ, xung nhân 400 MHz, giao tiếp nhớ 256-bit. Phiên bản 128 MB RAM có xung nhớ 350 MHz trong khi bản 256 MB lên đến 490 MHz.

 

Cũng tương tự như Radeon 9500 Pro là bản dùng lại của Radeon 9700 Pro, Radeon X800 GTO chia sẻ chung nhiều thứ với các model Radeon X800 cao cấp. Do vậy chỉ cần flash firmware (BIOS), người dùng có thể sở hữu được chiếc card Radeon X800 Pro hoặc X850 Pro với giá cực hời.


Mặc dù lúc ra mắt, Radeon X800 GTO có giá 180 USD. Nhưng nhờ chính sách cạnh tranh, giá của nó giảm dần dần xuống mức chưa tới 100 USD, đánh dấu sự xuất hiện đầu tiên của một card đồ hoạ 256-bit rất "bình dân".

 

8. NVIDIA GeForce 7600 GT


Nếu GeForce 6600 GT đã tạo ra cơn sốt mới ở phân khúc card tầm trung trong suốt 2005, thì GeForce 7600 GT sẽ tiếp tục vai trò đó bắt đầu từ đầu 2006. Hiệu năng của chiếc card GeForce 7 mới tương đương với các model GeForce 6800 Ultra hoặc Radeon X850 XT nhưng giá chỉ ... 140 USD !


Dùng tiến trình 90 nm, nhân đồ hoạ GeForce 7600 GT có 12 ống lệnh đồ hoạ, xung nhân và nhớ 560 & 700 MHz DDR, dựa trên giao tiếp 128-bit. Chiếc card này dễ dàng hạ gục đối thủ cùng tầm giá Radeon X1600 XT và thậm chí là ngang cơ model X1650 XT ra mắt sau đấy.


Về sau khi tình trạng của ATI ngày một tệ hơn (đến mức bị AMD mua lại), GeForce 7600 GT tiếp tục là model có tỷ lệ p/p tốt nhất trên thị trường.

 

9. ATI Radeon X1950 Pro
 
Suốt 2006, ATI hoàn toàn không có gì để cạnh tranh với GeForce 7600 GT ở phân khúc tầm trung. Mãi tới cuối năm ấy, phe đỏ mới có một đại diện đáng kể với giá thành dưới 200 USD: Radeon X1950 Pro.

 

Thực ra trước ấy, ATI đã có Radeon X1900 GT ở mức giá này. Nhưng nó vốn là bản dùng lại của Radeon X1900 XT dựa trên nhân R580 không hoàn chỉnh. Do vậy mà chi phí sản xuất Radeon X1900 GT rất đắt đỏ, hoàn toàn không có lợi về mặt tài chính cho ATI. Hãng này quyết định tung ra Radeon X1950 Pro dựa trên nhân R570 nhỏ hơn (90 nm), hiệu quả hơn và ít tốn kém hơn.


R570 là con chip có 36 nhân đồ hoạ (shader core), hoạt động ở xung 575 MHz và bộ nhớ 256-bit chạy ở mức 690 MHz, chi phí rẻ hơn và nhờ đấy có thể trụ lại được ở phân khúc 200 USD. Thậm chí nó còn hạ được cả 2 model GeForce 7900 GS và GT dù chi phí sản xuất rẻ hơn.

 

10. NVIDIA GeForce 8600 GT & GTS


Thực ra khi mới ra mắt hồi đầu 2007, tỷ lệ p/p của 2 model GeForce này không "tốt" cho lắm. Chúng thậm chí không hơn GeForce 7600 GT nhiều và còn bị áp đảo bởi Radeon X1950 Pro lẫn GeForce 7900 GS. Giá lần lượt của 2 model GeForce 8 này là 150 & 200 USD. Nhưng điều gì đã giúp chúng "có mặt" ở đây?

 

Nguyên nhân sâu xa thực tế lại bắt nguồn từ AMD (khi mua lại ATI) đã bắt đầu cuộc chiến giá cả với Radeon HD 2600 XT (sẽ bàn ở phần sau). Điều này khiến cho NVIDIA phải hạ giá "khốc liệt" 2 model trên xuống ngưỡng 100 USD. Tất cả chúng đều được sản xuất trên tiến trình 80 nm và có 32 nhân đồ hoạ, giao tiếp nhớ 128-bit. 8600 GT có xung nhân và nhớ lần lượt 540 & 700 MHz còn 8600 GTS cao hơn ở mức 675 & 1000 MHz.